Giải pháp quản lý khai thác cát hiệu quả và bền vững
Tình trạng khai thác cát quá mức đã làm cho những tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng càng trầm trọng hơn, đặc biệt là việc đối mặt với sạt lở bờ sông, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, sản xuất của người dân vùng ĐBSCL.
Sạt lở nghiêm trọng do khai thác cát và xây dựng thủy điện
Vùng ĐBSCL là một trong những khu vực kinh tế trọng điểm của Việt Nam, đóng góp 31,37% GDP ngành nông nghiệp, 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản, 70% sản lượng trái cây, 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% sản lượng cá xuất khẩu. Tuy nhiên, nơi đây đang chịu tác động mạnh do biến đổi khí hậu cùng các hiện tượng cực đoan như: Hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở. Tình trạng khai thác cát quá mức đã làm gia tăng sạt lở bờ sông, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống người dân đồng bằng.
Báo cáo tham vấn của WWF và Tổng cục Phòng chống thiên tai (thuộc Bộ NN&PTNT), sạt lở đã bủa vây khắp cả đồng bằng và chưa có dấu hiệu dừng lại. Trung bình mỗi năm, ĐBSCL mất khoảng 500 ha đất. Trong 3 năm từ 2018 - 2020, sạt lở gây thiệt hại hơn 200 tỷ đồng tại An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long và Cà Mau.
Riêng năm 2020, An Giang có 53 điểm sạt lở ở mức nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm với chiều dài trên 171.000 m, khiến khoảng 20.000 hộ phải di dời; Đồng Tháp mất khoảng 329 ha đất do sạt lở, di dời khoảng 8.000 hộ dân; Cần Thơ nằm ở giữa đồng bằng nhưng vào cuối năm 2020 cũng đã có 30 điểm sạt lở, 1.400 m sông bị xói mòn, thiệt hại hơn 16 tỷ đồng.
Nguyên nhân chính gây ra tình trạng sạt lở này xuất phát từ việc khai thác nước ngầm quá mức và việc xây dựng hàng loạt các đập thủy điện ở thượng nguồn, đặc biệt là việc khai thác cát sông ngày càng tăng. Việc khai thác cát quá mức cũng làm gia tăng độ sâu lòng sông. Giai đoạn 1998-2008, độ sâu của lòng sông Tiền và sông Hậu tăng thêm 1,5m; giai đoạn 2009-2016 độ sâu này tăng thêm 5-10m và kéo theo 66% đường bờ biển của ĐBSCL bị xói mòn.
Theo Quỹ Quốc tế Bảo vệ thiên nhiên (WWF), tình trạng khai thác cát quá mức đã làm cho những tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng càng trầm trọng hơn, đặc biệt là việc đối mặt với sạt lở bờ sông, ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, sản xuất của người dân.
Các chuyên gia chỉ ra rằng, việc khai thác cát không bền vững đang tác động nhiều đến hình thái của sông Tiền và sông Hậu, 2 hệ thống sông chính ở ĐBSCL. Đáng chú ý, 40% diện tích ĐBSCL sẽ biến mất vào năm 2100 vì thiếu hụt trầm tích mà việc khai thác cát quá mức là một trong những nguyên nhân.
Nhận định về tình hình sạt lở của ĐBSCL, TS Nguyễn Nghĩa Hùng (Viện trưởng Viện Khoa học thủy lợi miền Nam) cho biết, sạt lở ở ĐBSCL không còn theo quy luật và xuất hiện bất cứ lúc nào. Tính đến năm 2022, ĐBSCL có 665 điểm sạt lở, với tổng chiều dài 656 km. Nguyên nhân chính gây sạt lở là do khai thác cát quá mức. Dòng sông như một cơ thể sống, liền mạch từ thượng nguồn ra biển. Nếu trữ cát ở thượng nguồn thì hạ nguồn bắt đầu sạt lở. Giai đoạn gần đây cho thấy hiện tượng đáy sông bị hạ thấp rất mạnh...
Tại buổi Tọa đàm "Quản lý cát bền vững ở ĐBSCL và giải pháp nào cho tình trạng khan hiếm cát dưới góc nhìn chuyên gia và truyền thông" , ông Hà Huy Anh - Quản lý dự án Quản lý cát bền vững WWF - Việt Nam cho biết, có sự mất cân bằng khá nghiêm trọng "ngân hàng cát" ở ĐBSCL, cụ thể là âm 26,5 - 39,5 triệu tấn/năm. Khối lượng cát đổ về từ thượng nguồn từ 6,8 - 7 triệu tấn/năm. Lượng cát khai thác ở ĐBSCL là âm 27 - 40 triệu tấn/năm. Lượng cát đổ ra biển là âm 6,5 triệu tấn/năm.
Bên cạnh đó, quá nhiều đập thủy điện xây dựng trên thượng nguồn dẫn đến lượng trầm tích đổ về đồng bằng từ thượng nguồn giảm theo thời gian, đến năm 2040 dự đoán chỉ còn 4,5 triệu tấn trầm tích đổ về ĐBSCL, trong đó 10 - 15% so với 143,2 triệu tấn năm 2007. Việc thiếu trầm tích là nguyên nhân tình trạng sụp lún, lòng sông càng ngày càng xói sâu, xâm nhập mặn ngày càng nghiêm trọng. "Chúng ta đang chi tiêu âm "ngân hàng cát" ít nhất từ 26,5 - 39,5 triệu tấn/năm. Có thể con cháu chúng ta sẽ không còn thấy 40% diện tích của đồng bằng sau 78 năm nữa", ông Hà Huy Anh cảnh báo.
Giảm thiểu rủi ro do biến đổi khí hậu gây ra
PGS.TS Nguyễn Nghĩa Hùng - Phó viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam nhận định, cát lòng sông là tài nguyên đặc biệt cần thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt, ở ĐBSCL, cát lòng sông được khai thác và sử dụng khá lớn với mục đích chủ yếu là làm vật liệu xây dựng, san lấp nền. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề khai thác cát ở khu vực này đang phải đối mặt với các thách thức như giảm lượng cát hàng năm do ảnh hưởng của xây dựng đập thượng nguồn; biến đổi khí hậu; khai thác quá mức làm mất cân bằng sinh thái, mất ổn định hình thái sông; sạt lở, xói lở, bồi lắng mất kiểm soát ở hạ lưu; chưa cân đối cung cầu, dựa trên quy hoạch, trữ lượng thăm dò.
Do đó, việc quản lý khai thác cát một cách hiệu quả và bền vững cần những giải pháp căn cơ và lâu dài.
WWF đã triển khai Dự án “Giảm thiểu tác động biến đổi khí hậu và phòng chống thiên tai thông qua sự tham gia của khối công – tư trong khai thác cát bền vững ĐBSCL” (gọi tắt là Dự án quản lý Cát bền vững), thực hiện từ tháng 7/2019-5/2024.
Theo đó, Dự án nhằm góp phần duy trì các chức năng sinh thái quan trọng và giảm thiểu rủi ro về kinh tế - xã hội do biến đổi khí hậu ở Ðồng bằng sông Cửu Long. Một trong những mục tiêu của dự án là tăng cường nhận thức của cộng đồng và các cơ quan ra quyết định về tác động của việc khai thác cát không bền vững, làm gia tăng thiên tai cho khu vực, từ đó thúc đẩy việc tìm kiếm các nguồn vật liệu thay thế cát sỏi trong lĩnh vực xây dựng.
Hiện tại, dự án đã hoàn thành các hoạt động khảo sát đo đạc trên hiện trường của hai gói công việc chính là gói "Ngân hàng cát" và gói "Kế hoạch Duy trì hình thái sông". Dự kiến, các kết quả chính thức sẽ được công bố vào tháng 3/2023 tới.
Theo Quỹ Quốc tế Bảo vệ thiên nhiên tại Việt Nam, dự án Quản lý cát bền vững ở ĐBSCL sẽ thúc đẩy sự tham gia và đối thoại giữa các chủ thể chính trong ngành xây dựng Việt Nam, cung cấp thông tin về các rủi ro liên quan đến khai thác cát sỏi và cơ hội tìm nguồn cung ứng bền vững để thay thế cát sỏi tại Cần Thơ nói riêng và các tỉnh, thành phố ĐBSCL nói chung.
Đồng thời, một chiến dịch truyền thông về tác động của việc khai thác cát sỏi không bền vững ở ĐBSCL cũng sẽ được Quỹ Quốc tế Bảo vệ thiên nhiên tại Việt Nam thực hiện nhằm thúc đẩy hành động khẩn cấp để giải quyết vấn đề. Qua đó, Quỹ Quốc tế Bảo vệ thiên nhiên tại Việt Nam mong muốn sẽ đem lại một tác động cụ thể, đó là góp phần duy trì các chức năng sinh thái quan trọng và giảm thiểu tính dễ bị tổn thương về kinh tế - xã hội cho vùng.
Lan Anh