Thiên tai khó dự báo nhất là lũ quét, sạt lở đất
Nước ta là khu vực khó dự báo lũ quét, sạt lở đất nhất trên thế giới do đối lưu phức tạp; trình độ khoa học công nghệ mới đang ở tầm khu vực Đông Nam Á.
Lũ quét xảy ra khi đồng thời xuất hiện cả 2 yếu tố là đất đá bở rời kém gắn kết trên đường đi của dòng chảy và xuất hiện dòng chảy với tốc độ đủ lớn để cuốn theo.
Tại các tỉnh miền núi phía Bắc, hậu quả của lũ quét và sạt lở đất sau cơn bão số 3 vẫn còn chưa khắc phục hết được. Hiện nay, mưa lớn kéo theo nguy cơ lũ quét và sạt lở đất lại đang tiếp tục đe dọa các tỉnh miền núi phía Bắc như Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái và đặc biệt là khu vực Bắc Trung Bộ, Trung Bộ và cả vùng Tây Nguyên.
Nhiều khu vực ở vùng núi Thanh Hóa và Nghệ An xuất hiện những vết nứt núi hoặc sạt lở làm cho người dân phải di dời. Ở Quảng Bình, mưa lớn gây ngập nhiều cầu tràn, chia cắt hàng ngàn người dân. Hơn 2000 người dân ở huyện miền núi Minh Hóa đang bị cô lập hoàn toàn do mưa lũ. Tại Hà Tĩnh, lượng mưa lớn phổ biến lên tới 250 mm. Gần 6000 học sinh huyện Hương Sơn đã phải nghỉ học. Toàn vùng Tây Nguyên đã xuất hiện hàng trăm vị trí xung yếu, dễ sạt lở, lũ quét khi có mưa lớn gây nguy hiểm đến tính mạng của người dân.
Theo bà Đặng Thanh Mai, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Khí tượng thủy văn, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho hay, năm 2024, nguy cơ gia tăng xảy ra sạt lở đất, lũ quét ngày càng nghiêm trọng hơn. Nguyên nhân gây ra sạt lở đất, lũ quét thường là do mưa lớn kết hợp với quá trình phong hóa không ổn định của đất đá, độ dốc lớn của sông, suối, địa hình chia cắt và sự tác động của con người như cắt, xẻ, xây dựng các hồ chứa nước, khai thác thảm phủ và làm mất độ kết dính của đất đá.
Trong quá trình mưa lớn, đất đá, thân cây có thể bị cuốn vào chỗ hẹp, tắc nghẽn để tạo ra các đập chứa nhân tạo. Khi có mưa lớn, các đập này bị vỡ, cuốn theo lượng lũ lớn kéo dài kèm theo lượng đất, bùn đá lớn và những trận lũ quét nghẽn dòng.
Nước ta là khu vực khó dự báo nhất trên thế giới do đối lưu phức tạp; trình độ khoa học công nghệ mới đang ở tầm khu vực Đông Nam Á và tài chính không đủ mạnh.
Mục tiêu mà Liên Hợp quốc đã đặt ra là đảm bảo rằng cuối năm 2027, mọi người trên thế giới đều có thể nhận được cảnh báo sớm trước các thiên nhiên thảm khốc. Ở Việt Nam, việc mỗi người được thông báo kịp thời và trực tiếp về nguy cơ thiên tai sẽ giúp tăng tính chủ động trong ứng phó với các thảm họa được dự báo sớm và từ đó sẽ phối hợp tốt hơn với các cơ quan chức năng. Đó chính là một biện pháp hữu hiệu trước những diễn biến ngày càng khó lường của thời tiết.Cần cảnh báo sớm hơn và phạm vi nhỏ hơn
Lũ quét và sạt lở đất là hai loại hình thiên tai nguy hiểm thường để lại hậu quả nặng nề về người và tài sản. Mặc dù Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc cảnh báo sớm thiên tai và khoanh vùng nguy cơ cho các địa phương thế nhưng việc dự báo thiên tai vẫn là một bài toán khó chinh phục.
Bà Đặng Thanh Mai cho biết, hiện nay, chúng ta đang sử dụng bộ bản đồ với tỉ lệ 1:50.000 để cung cấp thông tin về nội dung quy hoạch, phát triển kinh tế-xã hội, di dời dân cư. Cùng với đó, bản đồ chỉ cho biết chúng ta nằm trong vùng có nguy cơ cao về lũ quét và sạt lở đất hay không. Việc xảy ra lũ quét, sạt lở đất sẽ phụ thuộc vào lượng mưa. Để cảnh báo, phải có các thông tin quan trắc, mưa tại chỗ, số liệu ra đa kết quả dự báo mưa 3 tiếng, 6 tiếng, 24 tiếng từ các mô hình cảnh báo, kết hợp với việc xác định vị trí xảy ra lũ quét, sạt lở đất mới có thể đưa ra thông tin dự báo, cảnh báo về lũ quét và sạt lở đất.
Theo TS Nguyễn Đại Trung, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản, hệ thống thông tin cảnh báo lũ quét và sạt lở đất vừa cập nhật danh sách 146 xã thuộc các địa phương trên cả nước có nguy cơ xảy ra thiên tai. Việt Nam có năng lực cảnh báo các loại hình thiên tai nguy hiểm như mưa lớn diện rộng trước 2 - 3 ngày với độ chính xác lên đến 75%, có các bản đồ dự báo sạt lở, lũ quét, bản đồ khí tượng. Tuy vậy, việc cảnh báo sớm theo thời gian thực và phạm vi nhỏ hơn là rất cần thiết vì thiên tai ngày càng khốc liệt do đó đòi hỏi các biện pháp ứng phó phải được thực hiện nhanh chóng và chính xác hơn.
Hiện nay Việt Nam có 3.000 trạm quan trắc đo lượng mưa, tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng. Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã ban hành quy hoạch phát triển mạng lưới khí tượng thủy văn quốc gia và nhiều địa phương cũng có các kế hoạch phát triển mạng lưới khí tượng thủy văn chuyên dùng. Theo dự kiến, từ nay đến năm 2030 các trạm đo lượng mưa có thể tăng lên tới 30%, phát huy hiệu quả hơn trong công tác dự báo, cảnh báo lũ quét và sạt lở đất.
Hiện nay quan trắc mưa đã cơ bản tự động hóa và chúng ta có thể theo dõi thông qua nhiều ứng dụng khác nhau. Đáng chú ý là đa phần các dữ liệu quan trắc hiện nay đã được tích hợp vào hệ thống thông tin cảnh báo nguy cơ lũ quét, sạt lở đất thời gian thực. Quan trọng hơn nữa là thông tin dự báo 3-6 giờ trời mưa như thế nào cũng được tích hợp trong hệ thống nên người dân cần đặc biệt quan tâm đến thông tin cảnh báo từ hệ thống này. Thông tin cảnh báo khu vực nguy cơ lũ quét, sạt lở đất thời gian thực được cung cấp trực tuyến trên trang thông tin điện tử của Tổng cục Khí tượng Thủy văn tại địa chỉ: https://luquetsatlo.nchmf.gov.vn và trong bản tin riêng cảnh báo lũ quét, sạt lở đất.
Với một số vùng mật độ quan trắc, giám sát chưa đủ dày, hạn chế thông tin quan trắc cũng có thể được bù đắp dữ liệu bằng các phương pháp có tính khoa học như sử dụng dữ liệu ra đa, vệ tinh nên có thể khắc phục bằng việc gửi tin nhắn của chính quyền địa phương và người dân cần chủ động tiếp nhận thông tin để phòng ngừa.
Bích Ngọc