Giải pháp nước sạch cho ĐBSCL
Trên toàn vùng ĐBSCL có khoảng 224 nhà máy nước mặt và 126 nhà máy nước ngầm, tỉ lệ bao phủ dịch vụ cấp nước đô thị đạt 90%. Tuy nhiên, đa phần các nhà máy nước còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, công nghệ còn lạc hậu.
Còn nhiều bất cập trong việc cung cấp nước
PGS.TS Châu Nguyễn Xuân Quang, Phó Viện trưởng Viện Môi trường - Tài nguyên cho rằng, ĐBSCL nằm ở vùng hạ lưu lưu vực sông Mê Công, tiếp giáp biển, có địa hình thấp và phẳng (cao độ trung bình so với mực nước biển chỉ vào khoảng 1-1,8m). Do vậy, tài nguyên nước nơi đây rất nhạy cảm với những tác động từ thượng lưu, phía biển, hoạt động dân sinh kinh tế nội vùng.
Hiện nay, nguồn nước trên địa bàn ĐBSCL được cung cấp cho 3 mục đích chính: cung cấp cho đô thị, sản xuất công nghiệp và nông thôn.
Nguồn cấp nước cho khu vực đô thị được lấy từ sông Tiền, sông Hậu và nước ngầm. Tổng công suất cấp nước là 1,182 triệu m3/ngđ trong đó 73% là sử dụng nước mặt. Tỉ lệ bao phủ dịch vụ cấp nước đô thị đạt 90%.
Tuy nhiên, công suất khai thác chỉ đạt khoảng 70% so với thiết kế do công nghệ còn lạc hậu. Mặt khác, nhiều nhà máy đã xây dựng từ lâu, một số công trình bị xuống cấp nên tỉ lệ thất thoát cao (thất thoát bình quân 25%).
Toàn vùng ĐBSCL hiện có 76 khu công nghiệp và 86 cụm công nghiệp tập trung, với tổng diện tích đạt hơn 26.000 ha. Trong đó, khoảng 85% khu công nghiệp có hệ thống cấp nước riêng, còn lại 15% là nước được cấp từ các nhà máy cấp nước đô thị.
Bên cạnh đó, có khoảng 4.200 công trình cấp nước nông thôn, 90% là khai thác nước ngầm, nước mặt chiếm 10%. Cấp nước nhỏ lẻ quy mô hộ gia đình vẫn chiếm tỷ lệ lớn.
Hiện, nhiều công trình có quy mô nhỏ, không có hệ thống xử lý nước sạch, người dân còn sử dụng giếng quá nhiều nên rất khó khăn để xử lý nước sạch đạt QCVN-02. Mô hình quản lý vận hành cũng chưa hợp lý, hầu hết giao cho UBND cấp xã và cộng đồng quản lý (ví dụ Cà Mau).
Ngoài ra, nguồn vốn hạn chế, gây khó khăn trong việc cải tạo nâng cấp các trạm cấp nước tập trung để đáp ứng chất lượng nước như QCVN-02.
Hạn hán xâm ngập mặn ngày càng khốc liệt, ảnh hưởng của hiện tượng El Nino đến các công trình cấp nước sử dụng nguồn nước mặt, gây ô nhiễm và cạn kiệt nguồn nước, đặc biệt là ở các tỉnh vùng ven biển.
Công tác xã hội hóa về cấp nước chưa có hướng đi cụ thể, dân cư còn nghèo, sống thưa thớt, phân tán nên rất khó kêu gọi các nhà đầu tư.
Công nghệ xử lý nước còn lạc hậu, dẫn đến chất lượng nước cấp không đảm bảo để người dân yên tâm sử dụng.
Khi xảy ra hạn hán, xâm nhập mặn người dân nằm ngoài khu vực cấp nước tập trung có nguy cơ mất an toàn về nước sinh hoạt rất cao.
Nguồn nước ngọt tại ĐBSCL trong tương lai sẽ ngày càng suy giảm về số lượng và chất lượng do ảnh hưởng biến đổi khí hậu và sự gia tăng sử dụng nước của các quốc gia thượng nguồn. Điều này làm gia tăng nguy cơ thiếu nước ngọt cho sinh hoạt trong vùng vào mùa khô, đặc biệt là đối với các tỉnh ven biển, tình hình hạn hạn kéo dài, xâm nhập mặn vào sâu tại các cửa sông.
Giải pháp cho vấn đề cấp nước tại ĐBSCL
PGS. TS Mai Thị Liên Hương, Cục trưởng Cục Hạ tầng kỹ thuật, Bộ Xây dựng cho biết, thời gian qua, thực hiện Nghị quyết số 120 của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu và các chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng đã phối hợp với Bộ NN&PTNT, các địa phương ĐBSCL và một số tổ chức quốc tế nghiên cứu giải pháp cấp nước sinh hoạt cho vùng, trong đó có việc xem xét khả năng đầu tư xây dựng các hệ thống cấp nước sạch tập trung liên vùng.
Qua nghiên cứu cho thấy, hệ thống cấp nước sạch tập trung liên vùng có ưu điểm về mặt phương án kỹ thuật nhưng chi phí đầu tư xây dựng và mức giá nước sạch dự kiến sẽ rất lớn. Ở thời điểm hiện tại, việc đầu tư xây dựng hoàn chỉnh các hệ thống này là chưa khả thi về mặt tài chính và khả năng chi trả của người dân.
Tuy nhiên, công tác đầu tư phát triển hệ thống cấp nước ứng phó với biến đổi khí hậu và xâm nhập mặn, bảo đảm nước sạch sinh hoạt, sản xuất của người dân hiện đang là nhiệm vụ vô cùng cấp bách, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của vùng.
Do vậy, để các dự án cấp nước vùng có cơ sở triển khai một cách hiệu quả, khoa học và đồng bộ, việc kịp thời tổ chức điều chỉnh quy hoạch cấp nước vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định số 2140/QĐ-TTg (gọi tắt là Quy hoạch 2140) là rất cần thiết.
Bên cạnh đó, các địa phương cũng phải chủ động các phương án đảm bảo nguồn nước. Đại diện Sở Xây dựng tỉnh Bến Tre cho biết: “Do đặc thù của hệ thống cấp nước của Bến Tre chủ yếu là khai thác từ nguồn nước mặt nên việc hoàn thành các công trình thủy lợi có ý nghĩa rất quan trọng. Hiện tỉnh đã hoàn thành hồ chứa nước ngọt kênh Lấp (sức chứa khoảng 1 triệu m3), đang thực hiện dự án hồ chứa nước ngọt Lạc Địa (sức chứa khoảng 2,3 triệu m3).
Ngoài ra, theo dự kiến đến năm 2025, khi các dự án thủy lợi lớn của tỉnh hoàn thành sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu cung cấp nước cho các nhà máy nước, cần tăng cường năng lực xử lý nước nhiễm mặn của các nhà máy cấp nước trên địa bàn tỉnh”.
Riêng địa bàn Cần Giuộc (Long An) các dự án cấp nước được đầu tư đã hoàn thành hạ tầng nhưng nguồn cấp chưa có do các mạch nước ngầm đã cạn kiệt hoặc bị nhiễm mặn không sử dụng được.
Dự kiến ban đầu các dự án này sẽ lấy nước từ Công ty Cấp nước Nhà Bè và Tổng công ty cấp nước Sài Gòn nhưng chưa thực hiện được do ảnh hưởng bởi dự án đường cao tốc Bến Lức-Long Thành - Dầu Giây. Trung bình mỗi ngày đêm, huyện thiếu khoảng 3.000m3 nước sạch. Tỉnh vừa có phương án đưa nguồn nước từ Nhà máy nước Nhị Thành (huyện Thủ Thừa) về cấp nước cho các dự án trên địa bàn huyện Cần Giuộc.
Huỳnh Mai