Chủ nhật, 24/11/2024 06:53 (GMT+7)
Thứ bảy, 24/08/2024 09:18 (GMT+7)

Nông sản Việt Nam cần thích ứng xuất khẩu xanh

Theo dõi KTMT trên

Cà phê, cao su, gạo - 3 nông sản xuất khẩu tỷ USD của Việt Nam bắt buộc phải tuân thủ các quy định mới của EU về phát triển bền vững nếu muốn vào thị trường này.

Nông sản Việt Nam cần thích ứng xuất khẩu xanh - Ảnh 1
Cà phê là một trong những mặt hàng xuất khẩu lớn của Việt Nam và cần đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của EU. (Ảnh minh họa)

Thách thức và cơ hội với nông sản Việt vào EU

Quy mô thị trường EU lên đến 62 tỷ Euro, tương đương với 43% giá trị thương mại trái cây và rau toàn cầu. Tuy nhiên, để thích ứng với yêu cầu từ thị trường xuất khẩu, sản xuất và thương mại nông sản của Việt Nam phải được định hướng phát triển bền vững theo chuỗi giá trị.

Tính chung xuất khẩu nông sản sang EU đã tăng trung bình 15% mỗi năm trong 4 năm qua. Đặc biệt, các mặt hàng như gạo ST25, thanh long và xoài cát Hòa Lộc đã trở thành những sản phẩm được ưa chuộng tại nhiều quốc gia châu Âu. Không chỉ tận dụng lợi thế từ việc giảm thuế, các doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam còn nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe của EU. Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư vào công nghệ sản xuất hiện đại, áp dụng các quy trình kiểm soát chất lượng từ khâu trồng trọt, thu hoạch đến chế biến và đóng gói.

Mặc dù Liên minh châu Âu đã ghi nhận những thay đổi tích cực từ nông sản Việt nhưng đây vẫn là một thị trường khó tính với những quy định liên tục thay đổi. Vì vậy, Việt Nam muốn đẩy mạnh xuất khẩu, cần khắc phục các tồn tại liên quan đến quy tắc xuất xứ, chất lượng hàng nông sản. Việc đầu tư phát triển những mô hình nông nghiệp bền vững, sản xuất hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao là hướng đi mà nhiều doanh nghiệp đang hướng tới để đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của thị trường quốc tế.

Thực tế cho thấy tỷ lệ tận dụng quy tắc xuất xứ đều tăng cao ở các ngành hàng chủ lực như Thủy sản: gần 90%, Rau quả: >88,3%... không chỉ giúp doanh nghiệp tận dụng được ưu đãi thuế về 0% mà hơn hết là nâng cao mức độ nhận diện thương hiệu Việt, tăng khả năng cạnh tranh hàng Việt Nam tại EU.

Bộ Công Thương cũng lưu ý các doanh nghiệp khi xuất khẩu các sản phẩm rau quả sang EU cần chú ý đáp ứng đầy đủ các quy định nhập khẩu khác, đặc biệt là các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật, ghi nhãn… Các quy định nhập khẩu của EU đối với rau quả rất khắt khe và thay đổi thường xuyên nên doanh nghiệp xuất khẩu phải liên tục cập nhật và kết nối chặt chẽ với nhà nhập khẩu để đáp ứng các quy định đưa ra.

Cục Bảo vệ thực vật, Bộ NN&PTNT cho biết, khi tham gia công ước bảo vệ thực vật quốc tế, Việt Nam phải áp dụng quản lý kiểm dịch thực vật và vệ sinh an toàn thực phẩm.

Đối với thị trường EU, tất cả các lô hàng phải đáp ứng các yêu cầu sản phẩm không được nằm trong danh mục thực vật, sản phẩm thực vật bị cấm hoặc tạm dừng nhập khẩu vào các nước EU; không nhiễm đối tượng kiểm dịch thực vật của EU và hầu như không bị nhiễm các loài dịch hại khác; phải có Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật; vật liệu đóng gói bằng gỗ phải đạt tiêu chuẩn quốc tế về vật liệu đóng gói bằng gỗ (ISPM-15).

Hiện nayviệc tăng cường kiểm soát vi sinh vật, kiểm soát mức dư lượng tối đa thuốc bảo vệ thực vật (MRL), kiểm soát thuốc kháng sinh và phụ gia thực phẩm đang được EU áp dụng rất chặt chẽ.

Theo TS. Ngô Xuân Nam, Phó Giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam, Bộ NN&PTNT, hàng nông sản Việt Nam muốn giữ được thị trường EU thì người sản xuất cần cập nhật và điều chỉnh quy trình sản xuất, kiểm soát chặt chẽ hơn đối với các mức MRL ở mức thấp (0,01 ppm) để đáp ứng được quy định của EU trong thời gian tới.

Lãnh đạo Văn phòng SPS Việt Nam cũng khẳng định, không riêng thị trường EU mà nhiều thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thời gian gần đây đều gia tăng việc thông báo lấy ý kiến các thành viên WTO về việc thay đổi các biện pháp an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS).

"Trung bình, hàng tháng, Văn phòng SPS Việt Nam nhận được khoảng 100 thông báo dự thảo và thông báo có hiệu lực", ông Ngô Xuân Nam nhấn mạnh.

Ông Nam cho biết thêm: "Mới đây, EU cũng ra các thông báo dự thảo quy định thay đổi MRL đối với 4 hoạt chất thuốc bảo vệ thực vật, đó là: Zoxamide, Fenbuconazole, Penconazole và Acetamiprid do EU thông báo ý kiến thành viên WTO, theo đó tùy từng sản phẩm cụ thể, mức MRL có thể tăng hoặc giảm hoặc giữ nguyên. Trong đó, có nhiều mức MRL giảm sâu đối với từng sản phẩm cụ thể. Chi tiết mức độ thay đổi, chúng tôi đã cập nhật trên website của Văn phòng SPS Việt Nam".

Về thời gian lấy ý kiến thành viên WTO là 60 ngày và ngày hết hạn góp ý đối với thông báo cuối cùng là: 12/9/2024. Thời gian EU áp dụng dự kiến từ tháng 2/2025.

Ông Ngô Xuân Nam lưu ý thêm: " Phạm vi áp dụng gồm tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ nhập khẩu nông sản thực phẩm vào EU và kể cả nội khối EU, chứ không phải riêng cho Việt Nam như một số thông tin trên mạng xã hội".

Nông sản Việt Nam cần thích ứng xuất khẩu xanh - Ảnh 2
Quả chanh Việt Nam là một trong số những mặt hàng đã lên kệ trong các siêu thị Đức.

Quy định giảm mất rừng và suy thoái rừng (EUDR)

Tại một hội thảo mới đây, đại diện Cục Xúc tiến thương mại cho hay, châu Âu là thị trường nhập khẩu quan trọng các mặt hàng liên quan đến nạn phá rừng gồm 50% cà phê và 60% ca cao của thế giới. Do đó, quy định không phá rừng nhằm giảm tác động của các sản phẩm do công dân Liên minh châu Âu (EU) mua đối với các khu rừng và diện tích rừng trên thế giới.

Quy định giảm mất rừng và suy thoái rừng (EUDR) được đề xuất hướng vào những mặt hàng có tác động lớn đến nạn phá rừng và một số sản phẩm có nguồn gốc từ chúng như cà phê, ca cao, đậu nành, dầu cọ, gia súc, gỗ và sản phẩm gỗ…

Đặc biệt, kể từ 29/6/2023, một số mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu vào EU đứng trước một "hàng rào" mới - Quy định chống phá rừng (The European Union Deforestation Regulation - EUDR) của EU. Các doanh nghiệp lớn sẽ có 18 tháng, doanh nghiệp nhỏ và vừa có 24 tháng để chuẩn bị và đáp ứng các yêu cầu của EUDR tính từ thời điểm quy định này có hiệu lực.

EUDR cấm nhập khẩu 7 nhóm mặt hàng vào EU nếu quá trình sản xuất các mặt hàng này gây mất rừng. Tại Việt Nam, ba nhóm ngành bị tác động chính bao gồm gỗ, cao su và cà phê. Do đó, chương trình nhằm đào tạo, nâng cao năng lực giúp doanh nghiệp tự tin xuất khẩu xanh.

Theo ông Hoàng Thành, đại diện Phái đoàn EU tại Việt Nam, Quy định của EU về chuỗi cung ứng không gây phá rừng và suy thoái rừng (gọi tắt là EUDR) nhằm giảm thiểu nguy cơ các sản phẩm, chuỗi cung ứng liên quan đến phá rừng, suy thoái rừng được đưa vào thị trường EU hoặc xuất khẩu từ thị trường EU.

Từ 31/12/2024, quy định này bắt đầu áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức; tháng 6/2025 đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chỉ những sản phẩm đáp ứng cả hai điều kiện là không gây phá rừng và hợp pháp mới được phép vào thị trường EU hoặc xuất khẩu từ EU. Đặc biệt, truy xuất nguồn gốc hàng hóa nghiêm ngặt đến tận thửa đất, lô rừng nơi hàng hóa đó được sản xuất.

Nông sản Việt Nam cần thích ứng xuất khẩu xanh - Ảnh 3
Người tiêu dùng Pháp đặc biệt quan tâm đến gạo ViệtNam Rice - Ảnh: Lộc Trời

CBAM áp mức giá carbon lên hàng hóa nhập khẩu có lượng phát thải cao

Ông Huỳnh Thành Trung, chuyên gia đào tạo về CBAM, Cơ chế Điều chỉnh biên giới carbon là một quy định mới quan trọng của EU nhằm giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và đảm bảo một sân chơi bình đẳng cho các ngành công nghiệp. CBAM được EU thí điểm áp dụng giai đoạn chuyển tiếp từ ngày 1/10/2023 và thực hiện đầy đủ từ năm 2026.

CBAM áp mức giá carbon lên hàng hóa nhập khẩu có lượng phát thải cao (bao gồm xi măng, nhôm, sắt thép, phân bón, hydro và điện). Quy định này hướng đến mục tiêu ngăn ngừa "rò rỉ carbon" và duy trì tính cạnh tranh của các ngành công nghiệp EU đang chịu phí carbon theo Hệ thống Mua bán phát thải (ETS).

Cùng đó, các chuyên gia tham gia chương trình cũng thông tin các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa thuộc diện CBAM cần đánh giá cẩn thận các tác động tài chính tiềm tàng của quy định này. Việc chủ động thực hiện các biện pháp tuân thủ là vô cùng cần thiết. Bởi, việc nắm bắt và hiểu biết rõ các quy định mới của EU như: CBAM, EUDR, doanh nghiệp có kế hoạch, biện pháp và lộ trình điều chỉnh các hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu phù hợp và hiệu quả trong bối cảnh mới.

Ông Đinh Sỹ Minh Lăng, Vụ thị trường châu Âu-châu Mỹ (Bộ Công Thương) nhấn mạnh: Chi phí xuất khẩu sang EU tăng, có khả năng gây rủi ro cho các công ty vừa và nhỏ: Thủ tục truy xuất nguồn gốc và chứng nhận của EUDR vì họ sẽ yêu cầu các công nghệ, quy trình và chi phí hành chính cho việc tuân thủ. Ngoài ra hàng hoá của Việt Nam sẽ bị cạnh tranh xuất khẩu và mất thị phần tại EU bởi đối thủ cạnh tranh đã sẵn sàng cho việc tuân thủ đầy đủ EUDR.

Hơn nữa, hạn chế năng lực truy xuất nguồn gốc trong chuỗi cung ứng; trong đó, việc khó xác định vùng trồng hợp pháp ảnh hưởng đến kết quả đánh giá và phân loại rủi ro vùng trồng của EU theo quốc gia. Vùng sản xuất, mặc dù diện tích canh tác đối với cà phê, gỗ, cao su không lớn và canh tác ổn định.

Mặt khác, việc kiểm soát nguyên liệu đầu vào trong chuỗi cung ứng cà phê, gỗ, cao su do đội ngũ thu mua, thương lái phức tạp tham gia vào chuỗi cung ứng, đặc biệt là đối với các mặt hàng gỗ trong thời gian vừa qua là minh chứng điển hình thể hiện tính phức tạp, không tuân thủ các yêu cầu pháp lý của các khâu trong chuỗi (vấn đề hoàn thuế VAT).

Ông Nguyễn Trung Kiên, Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ rõ, EUDR yêu cầu 100% sản phẩm phải có định vị GPS/polygon đến từng mảnh vườn. Tuy nhiên, ở Việt Nam, tỉ lệ này còn thấp, trong khi chi phí định vị lại cao. Tiếp đến, EUDR yêu cầu truy xuất vật lý đến vườn trồng nhưng quy mô này ở nước ta lại nhỏ lẻ, manh mún; chuỗi giá trị phức tạp với nhiều lớp trung gian; chi phí phát sinh rất lớn.

Ngoài ra, do chưa rõ về nền bản đồ rừng tham chiếu phản ánh đúng thực trạng vào mốc 31/12/2020. Nhiều vùng đã chuyển sang trồng cà phê trước 2020 chưa thể hiện trên nền bản đồ rừng, một số chưa trùng khớp giữa bản đồ rừng và địa chính.Việt Nam còn chưa có cơ chế, biện pháp phản hồi thông tin minh bạch, hoặc biện pháp hỗ trợ nông hộ nguy cơ cao không xâm lấn rừng và tham gia trồng phục hồi rừng đồng thời cũng chưa có đánh giá tổng thể về nguy cơ xã hội và thử nghiệm giải pháp can thiệp.

Ông Nguyễn Trung Kiên nhấn mạnh, việc hợp tác công tư cung cấp hệ thống thông tin vùng sản xuất dựa trên chuyển đổi dữ liệu địa chính và khảo sát xác nhận thông tin. Chi phí hợp tác công tư sẽ thấp hơn, chỉ khoảng 3,7 USD/ha, trong khi nếu triển khai đơn lẻ, doanh nghiệp sẽ phải trả khoảng 10 USD/ha. Bên cạnh đó, triển khai đồng bộ, tạo ra hệ thống phục vụ đa cây trồng, đa mục đích, đa thị trường và kết nối với giải pháp truy xuất nguồn gốc theo vùng. Sau cùng, hợp tác công tư còn tạo điều kiện cho các nông hộ tiếp cận thị trường.

Do vậy, để không bị loại khỏi ''cuộc chơi'' bởi các tiêu chuẩn cao về môi trường và xã hội do các thị trường nhập khẩu đặt ra, các chuyên gia cho rằng doanh nghiệp cần thay đổi tư duy, quan tâm tới tính xanh của chuỗi cung ứng trong thương mại quốc tế để đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật khắt khe của thị trường khó tính như EU.

Duy Khánh

Bạn đang đọc bài viết Nông sản Việt Nam cần thích ứng xuất khẩu xanh. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0917 681 188 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

Tin mới