Chủ nhật, 24/11/2024 07:03 (GMT+7)
Thứ ba, 10/05/2022 06:05 (GMT+7)

Sửa đổi, bổ sung các quy định sử dụng tài nguyên biển bền vững

Theo dõi KTMT trên

Biển và hải đảo Việt Nam có vị trí và vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển bền vững đất nước. Tại dự thảo mới nhất, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất bổ sung quy định các hoạt động không phải thực hiện giao khu vực biển.

Vì sao cần sửa đổi quy định giao các khu vực biển?

Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, biển và hải đảo Việt Nam có vị trí và vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội, có ý nghĩa chiến lược đặc biệt đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng như về lâu dài. 

Theo đó, thực hiện Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, ngày 15/5/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 40/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo. Thực hiện Luật Biển Việt Nam, ngày 21/5/2014, Chính phủ ban hành Nghị định số 51/2014/NĐ-CP quy định việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển và ngày 10/2/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 11/2021/NĐ-CP thay thế Nghị định số 51/2014/NĐ-CP.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, một số quy định tại Nghị định số 40/2016/NĐ-CP và Nghị định số 11/2021/NĐ-CP đã không còn phù hợp với các văn bản, quy định mới được ban hành; một số quy định chưa cụ thể, có vướng mắc khi triển khai; quy định về thẩm quyền, trình tự giải quyết một số thủ tục hành chính cần xem xét, sửa đổi cho phù hợp với chủ trương đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước, cải cách hành chính, đáp ứng yêu cầu đơn giản hóa; cần rà soát, loại bỏ các quy định gây cản trở, vướng mắc cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm phù hợp với yêu cầu phát triển trong tình hình mới.

Sửa đổi, bổ sung các quy định sử dụng tài nguyên biển bền vững - Ảnh 1
Biển và hải đảo Việt Nam có vị trí và vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc. (Ảnh minh họa)

Ngày 7/2/2022, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Công văn số 662/BTNMT-TCBHĐVN gửi các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển đề nghị rà soát, kiến nghị, đề xuất hoàn thiện pháp luật về quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo. Bộ Tài nguyên và Môi trường đã nhận được 63 kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định số 11/2021/NĐ-CP; 26 kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định số 40/2016/NĐ-CP.

Trước đó, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã yêu cầu Bộ Tài nguyên và Môi trường hoàn thiện dự thảo Nghị định quy định việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển với các quy định về tiền sử dụng khu vực biển, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước đối với các hoạt động dầu khí.

Đề xuất bổ sung quy định các hoạt động không phải thực hiện giao khu vực biển

Theo Nghị định số 11/2021/NĐ-CP, giao khu vực biển là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định cho tổ chức, cá nhân được phép sử dụng một hoặc nhiều khu vực biển nhất định (khu vực biển) trong khoảng thời gian xác định để thực hiện hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển.

Tại dự thảo, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất bổ sung quy định các hoạt động không phải thực hiện giao khu vực biển.

Cụ thể, các hoạt động sau đây không phải thực hiện giao khu vực biển, không phải thực hiện chấp thuận hoạt động sử dụng khu vực biển: a) Hoạt động khai thác thủy sản trên biển theo quy định của pháp luật về thủy sản; b) Hoạt động khắc phục hậu quả trực tiếp do thiên tai, sự cố môi trường gây ra trên biển; c) Hoạt động nghiên cứu khoa học của tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành trong vùng biển Việt Nam đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép theo quy định tại Điều 19 Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; d) Hoạt động thăm dò dầu khí; hoạt động nạo vét (tại khu vực thực hiện nạo vét) theo quy định của pháp luật; đ) Hoạt động nghiên cứu khoa học, đo đạc, quan trắc, điều tra, khảo sát trên biển do cơ quan nhà nước thực hiện.

Các hoạt động sau đây không phải thực hiện giao khu vực biển nhưng phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận hoạt động sử dụng khu vực biển: 1- Hoạt động quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên trên biển trừ trường hợp quy định tại điểm đ nêu trên; 2- Hoạt động nghiên cứu khoa học của tổ chức, cá nhân Việt Nam trừ trường hợp hoạt động nghiên cứu khoa học sử dụng khu vực biển cố định và trừ trường hợp quy định tại điểm đ nêu trên. Các hoạt động này chỉ được thực hiện sau khi được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền xem xét, chấp thuận bằng văn bản theo quy định tại Điều 27b Nghị định này.

Dự thảo nêu rõ, trên một khu vực biển có thể chấp thuận cho nhiều tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên trên biển nhưng không được mâu thuẫn, xung đột với các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên biển hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác đang được phép tiến hành và hoạt động nghiên cứu khoa học, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên trên biển của tổ chức, cá nhân khác đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận. Thời hạn chấp thuận thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên trên biển không quá 5 năm.

Bên cạnh đó, Nghị định số 40/2016/NĐ-CP bổ sung 1 điều mới (Điều 39a) quy định về các trường hợp điều chỉnh Danh mục các khu vực phải thiết lập hành lang bảo vệ bờ biển; trình tự, thủ tục điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu thực tiễn; Sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 8 nhằm quy định rõ hơn về đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm và cách xác định trong một số trường hợp đặc thù; thời hạn điều chỉnh; chỉnh sửa, bổ sung quy định về thẩm quyền xác định, công bố đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm.

Ngoài ra, sửa đổi, bổ sung một số quy định về hồ sơ cấp, cấp lại, gia hạn, sửa đổi, bổ sung, cho phép trả lại giấy phép nhận chìm ở biển theo Phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường giai đoạn 2020 - 2025 (Điều 54, Điều 55, Mẫu số 09 và 10 tại Phụ lục).

Đồng thời, bãi bỏ Điều 9, Điều 10, Điều 11 và Điều 12 Nghị định số 40/2016/NĐ-CP liên quan đến lập Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ do không còn phù hợp, đã được quy định tại Nghị định số 37/2019/NĐ-CP ngày 07/5/2019 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quy hoạch; Bãi bỏ khoản 4 Điều 9, khoản 8 Điều 31 Nghị định số 11/2021/NĐ-CP do đã được xây dựng bổ sung, chi tiết thành các điều riêng mới; Bãi bỏ Mẫu số 11 Thông báo về việc nộp tiền sử dụng khu vực biển tại Phụ lục kèm theo Nghị định số 11/2021/NĐ-CP do đã được quy định tại Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế.

Dự thảo tờ trình quy định chuyển tiếp trong các trường hợp: Khi đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm của các đảo chưa được xác định, công bố; khi đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm, đường ranh giới ngoài của vùng biển 3 hải lý, vùng biển 6 hải lý được điều chỉnh; khi ranh giới phân định quản lý hành chính trên biển chưa được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, ban hành.

Lan Anh

Bạn đang đọc bài viết Sửa đổi, bổ sung các quy định sử dụng tài nguyên biển bền vững. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0917 681 188 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

Tin mới