Chủ nhật, 24/11/2024 08:42 (GMT+7)
Thứ năm, 02/12/2021 15:00 (GMT+7)

Việt Nam thích ứng thế nào với một tương lai hạn hán?

Theo dõi KTMT trên

Trên thế giới, hạn hán cũng là vấn đề đau đầu của nhiều quốc gia mà chưa có cách giải quyết ổn thỏa, ngoại trừ cắt giảm việc sử dụng nước. Sẽ thế nào nếu trong tương lai, mọi miền tổ quốc đều chịu hạn hán như tại Ninh Thuận những năm gần đây?

Hạn hán và những thiệt hại tại Việt Nam

Năm 2020, tại Việt Nam đã xảy ra 16 loại hình thiên tai, cụ thể 13 cơn bão trên biển Đông; 264 trận dông, lốc, mưa lớn trên 49 tỉnh, thành phố, trong đó 9 đợt có diện rộng tại 21 tỉnh, thành phố Bắc Bộ và Trung Bộ; 120 trận lũ, lũ quét, sạt lở đất; đặc biệt là đợt mưa lũ lớn lịch sử từ ngày 6-22/10 tại khu vực Trung Bộ; 86 trận động đất, trong đó có 2 trận động đất với rủi ro thiên tai cấp 4 (tại Mường Tè của tỉnh Lai Châu ngày 16/6 với độ lớn 4.9; tại Mộc Châu của tỉnh Sơn La ngày 27/7 với độ lớn 5.3); hạn hán, xâm nhập mặn nghiêm trọng, sạt lở bờ sông, bờ biển, sụt lún đê biển tại Đồng bằng sông Cửu Long…

Việt Nam thích ứng thế nào với một tương lai hạn hán? - Ảnh 1
Hạn hán ảnh hưởng nặng nề đến nông nghiệp Việt Nam. (Ảnh minh họa)

Gần 2 tháng cuối năm 2020, khu vực duyên hải miền Trung đã chịu ảnh hưởng dồn dập của 9 cơn bão (từ số 5 đến số 13) và 2 áp thấp nhiệt đới. Trong số đó, cơn bão số 9 đã đạt đến cấp siêu bão và được đánh giá mạnh nhất trong 20 năm qua với gió cấp 14, giật cấp 17, thời gian lưu gió mạnh lên đến 6-7 giờ; bão đổ bộ trùng với thời điểm triều cường đã tàn phá và gây thiệt hại nặng nề.
Trên thế giới, diện tích các hoang mạc chiếm khoảng 1/3 diện tích đất liền của Trái Đất, chỉ tính riêng 10 khu vực hoang mạc hóa lớn nhất thế giới đã có diện tích lên đến 43.967 triệu km2.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sa mạc hóa là giai đoạn cuối của suy thoái đất. Tuy nhiên, có những vùng đất là sa mạc hóa tự nhiên do không trải qua quá trình hình thành đất đầy đủ. Tại Việt Nam diện tích sa mạc tự nhiên khoảng 400.000ha.

Tại khu vực đất canh tác sự suy thoái đất ở Việt Nam được phân chia thành bốn mức độ: nhóm diện tích đất có nguy cơ suy thoái là khoảng 6,7 triệu ha; nhóm diện tích đất có dấu hiệu suy thoái vào khoảng 2,4 triệu ha; nhóm diện tích đất đã bị suy thoái là khoảng 1,3 triệu ha; cuối cùng là đất bị suy thoái thành sa mạc nhân tạo chỉ chiếm diện tích ít ỏi, vài nghìn ha.

Với lượng mưa thấp nhất nước, hạn hán tại tỉnh Ninh Thuận không còn lạ. Giờ đây, tại nhiều nơi, người dân cắm cổ khoan đào đến tận âm phủ cũng không thấy mạch nước ngầm, trong khi bò, dê, cừu chết hàng loạt thì cũng đủ thấy tầm mức hạn hán tại tỉnh nghèo này đang rất khốc liệt. 

Kịch bản về hạn hán xảy ra cuối thế kỷ 21 tại Việt Nam 

Nghiên cứu dự tính khí hậu giữa thế kỷ (2046–2065) và cuối thế kỷ 21 (2080 - 2099) đề cập đến một khía cạnh của biến đổi khí hậu: hạn hán. Giáo sư Phan Văn Tân (Khoa Khí tượng và Thủy văn, ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN), tác giả chính của nghiên cứu, cho biết “Nói đến biến đổi khí hậu là nói đến sự thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác của hệ thống khí hậu, làm ảnh hưởng đến rất nhiều yếu tố liên quan. Trong số đó, nhìn chung, người ta thường hay quan tâm đến nhiệt độ và lượng mưa bởi khi thay đổi, nó sẽ kéo theo những thay đổi khác, chẳng hạn như mưa tăng hay giảm có thể tác động đến đời sống tự nhiên và xã hội”. 

Theo góc nhìn của các nhà khí hậu/khí tượng học, biến đổi khí hậu dẫn đến hệ quả là sự phân bố lại năng lượng trên toàn bộ hệ thống Trái đất, dẫn đến làm thay đổi chế độ hoàn lưu của khí quyển và đại dương và do đó, làm thay đổi cơ chế tạo ra mưa – một hiện tượng mà tự nó đã vô cùng phức tạp nay lại được biến đổi khí hậu chi phối khiến cho “thiên biến vạn hóa” theo nhiều cách khác nhau như tăng giảm lượng mưa hay thay đổi địa điểm, thời điểm phân bố… khác nhau trên những vùng địa lý khác nhau và không tuân theo nhịp điệu mùa.

Chúng ta hãy thử tưởng tượng, khi mưa trở thành hiện tượng cực đoan, chỉ cần tăng về lượng là có thể gây ra lũ lụt còn nếu giảm về lượng thì dẫn đến thiếu nước. “Đến thời điểm nào đó, tự dưng mưa giảm so với điều kiện trung bình, sẽ tạo ra hiện tượng thiếu nước, tất yếu dẫn đến hạn hán (drought), tức là sự thiếu hụt nước trong một khoảng thời gian nhất định, còn khô hạn (aridity) là tình trạng ít mưa kéo kéo dài triền miên”, giáo sư Phan Văn Tân giải thích. 

Nếu nhìn bề ngoài, hạn hán chỉ là chuyện thiếu hụt nước mưa nhưng trên thực tế, nó là những thang bậc khác nhau và mức độ tác động khác nhau. Ở nấc thứ nhất là hạn khí tượng – đơn thuần liên quan đến việc hụt lượng mưa so với trung bình nhiều năm, nhưng nó dẫn đến sự mất cân bằng giữa lượng nước tích lũy trong đất và nhu cầu nước của cây trồng, dẫn đến nấc thứ hai là hạn nông nghiệp.

Việt Nam thích ứng thế nào với một tương lai hạn hán? - Ảnh 2
Kịch bản về hạn hán xảy ra cuối thế kỷ 21 tại Việt Nam. (Ảnh minh họa)

Theo hiệu ứng domino này, nếu sự thiếu hụt nước kéo dài hơn dẫn đến mực nước sông suối hạ thấp sẽ dẫn đến hạn thủy văn, và khi sự thiếu hụt mưa dẫn đến tình trạng thiếu nước sản xuất và sinh hoạt thì đó là hạn kinh tế xã hội. Giáo sư Phan Văn Tân nói “Chúng tôi quan tâm đến hạn khí tượng vì nó là nguồn gốc của ba loại hạn còn lại, đặc biệt hạn kinh tế xã hội”. 

Ông và các thành viên thực hiện nghiên cứu để giải đáp câu hỏi “trong tương lai, nếu nhiệt độ tăng cao và lượng mưa giảm thì liệu có hạn hán xảy ra ở Việt Nam không và nếu xảy ra thì như thế nào, ở mức độ nào so với quá khứ”? “Thực ra mưa ít hay mưa nhiều không quan trọng, quan trọng là lượng mưa ở mức độ như thế nào so với điều kiện trung bình. Nếu hụt so với điều kiện này thì ắt xảy ra hạn. Đấy là nội dung chúng tôi làm trong vòng ba năm qua”, ông nói.

Thích ứng thế nào với một tương lai hạn hán?

Theo các kịch bản dự báo này, “độ dài các đợt hạn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, Nam Bộ chắc chắn sẽ dài hơn vào giữa thế kỷ, còn vào cuối thế kỷ thì lượng mưa sẽ giảm nhiều hơn ở Nam Bộ. Điều đó cho thấy rủi ro hạn hán có thể gia tăng ở các vùng vốn là những vựa lúa của Việt Nam”, giáo sư Phan Văn Tân nói. 

Rất nhiều hệ quả có thể sẽ tới, nếu theo các kịch bản dự tính này: các hồ chứa thủy điện có nguy cơ không tích được đủ nước (vài năm gần đây, thủy điện Hòa Bình đã phải đối mặt với bài toán này) để phát điện và cung cấp nước cho nông nghiệp (trong khi theo một số dự báo thì nhu cầu năng lượng dự kiến sẽ tăng 2,5 lần từ năm 2015 đến 2035); việc khoan giếng tìm nước có thể sẽ càng phổ biến hơn, dẫu biết sẽ dẫn đến nguy cơ sụt lún đất; các hồ chứa, suối nhỏ sẽ trơ đáy, ảnh hưởng đến môi trường và hệ sinh thái; tình trạng xâm nhập mặn càng gia tăng ở đồng bằng ven biển.

Việt Nam thích ứng thế nào với một tương lai hạn hán? - Ảnh 3
Tình trạng xâm nhập mặn của các đồng bằng ven biển. (Ảnh minh họa)

Trong khi đó, “tăng trưởng kinh tế, thay đổi mô hình tiêu dùng và áp lực gia tăng dân số sẽ tiếp tục làm gia tăng nhu cầu sử dụng nước ở Việt Nam. Trong vòng 25 năm tới, nhu cầu sử dụng nước hằng ngày của dân cư ở các khu đô thị dự kiến sẽ tăng gấp đôi so với khả năng đáp ứng của hệ thống hiện tại…”, theo báo cáo của Worldbank.

Trên thế giới, hạn hán cũng là vấn đề đau đầu của nhiều quốc gia mà chưa có cách giải quyết ổn thỏa, ngoại trừ cắt giảm việc sử dụng nước. Tuy nhiên, việc cắt giảm nhu cầu nước sạch là điều không ai muốn. Ví dụ theo thông tin từ Santa Monica Daily Press - một nhật báo ở Santa Monica, California, ảnh hưởng của một đợt hạn hán nghiêm trọng khiến thống đốc bang Gavin Newsom yêu cầu gần 40 triệu cư dân của bang tự nguyện giảm lượng nước sử dụng xuống 15% nhưng trên thực tế thì chẳng mấy người áp dụng. Một cách khác người ta thường nhắc đến là lọc nước biển nhưng hạn chế của nó là chi phí vẫn còn cao. 

Có lẽ, cũng giống như ô nhiễm không khí, tình trạng ô nhiễm chỉ có thể cải thiện đáng kể khi chúng ta tìm ra và hạn chế được nguồn phát lớn nhất. Nếu áp dụng hướng giải quyết này thì cần giảm lượng nước sử dụng ở lĩnh vực nào đầu tiên? Theo báo cáo của Worldbank, lĩnh vực sử dụng nhiều nước nhất ở Việt Nam là nông nghiệp với 81%, tiếp đến là nuôi trồng thủy sản 11%. Với tình hình hạn hán được dự báo, liệu có thể hạn chế được việc sử dụng nước trong nông nghiệp?

Việc dự tính khí hậu trong tương lai bao giờ cũng là những kịch bản giả định (và là những giả định có lý). Giáo sư Phan Văn Tân không quên nhắc đi nhắc lại điều đó “Không thể chắc chắn những kịch bản này có thể xảy ra hay không xảy ra trong tương lai. Kịch bản phát thải thấp cho ta thông tin về điều mình muốn xảy ra nhưng chưa chắc đã xảy ra còn kịch bản phát thải cao cho ta thông tin về những rủi ro mà ta cần lường trước. Thông tin, dù bất định hay không bất định, cũng đáng để quan tâm bởi nó là gợi ý để giúp chúng ta quản lý rủi ro”. Đó là lý do ông tin rằng, các nhà quản lý sẽ cần phải lưu tâm đến những thông tin mà nghiên cứu này đưa ra. 

Nguyễn Linh (T/h)

Bạn đang đọc bài viết Việt Nam thích ứng thế nào với một tương lai hạn hán?. Thông tin phản ánh, liên hệ đường dây nóng : 0917 681 188 Hoặc email: [email protected]

Cùng chuyên mục

Tin mới