Cảng hàng không quy hoạch phải tăng lợi thế cạnh tranh về kinh tế
Vừa qua, thường trực Chính phủ cơ bản thống nhất nội dung của Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 do Bộ Giao thông vận tải trình.
Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho thấy, tại Thông báo 348/TB-VPCP ngày 24/12/2021, Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 phải liên hoàn, đồng bộ, kết nối và thúc đẩy các quy hoạch loại hình giao thông vận tải khác, góp phần phát triển ngành giao thông vận tải, giảm chi phí logistics, phát triển kinh tế - xã hội.
Với quy hoạch cảng hàng không, sân bay đã được hoàn thành đúng tiến độ, theo đúng quy định, trình tự thủ tục của pháp luật về quy hoạch. Thường trực Chính phủ cơ bản thống nhất nội dung của Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 do Bộ Giao thông vận tải trình.
Nhằm Quy hoạch sớm được thông qua, Bộ Giao thông vận tải cần tiếp thu đầy đủ ý kiến tại cuộc họp, rà soát kỹ, hoàn thiện nội dung trước khi trình Thủ tướng Chính phủ.
Cùng với đó, Quy hoạch phải bảo đảm bám sát các Nghị quyết của Đảng, Nghị quyết của Chính phủ, cụ thể hóa chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đã được Đại hội lần thứ XIII của Đảng thông qua; cập nhật các Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết về quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 để dự báo cho 5 năm, 10 năm tiếp theo, giúp cho công tác dự báo tốt hơn; có tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược, tính đến các yếu tố văn hóa, phát triển đô thị sân bay trong thời gian trước mắt và lâu dài, có kế thừa, đổi mới và định hướng phát triển.
Cơ bản, Thường trực Chính phủ thống nhất nội dung của Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 do Bộ Giao thông vận tải trình, phát triển nhanh hơn, phù hợp với sự phát triển của công nghệ mới, của đất nước, sự gia tăng dân số, nhu cầu của thị trường với tốc độ nhanh hơn trong thời gian tiếp theo; rà soát quy mô, số lượng các cảng hàng không bảo đảm phát triển lâu dài.
Yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ là làm rõ tiêu chuẩn, tiêu chí, điều kiện, quy trình để xác định loại hình, quy mô cảng hàng không (quốc tế, quốc nội); Rà soát quy mô, công suất của cụm cảng hàng không Đà Nẵng, Chu Lai để phù hợp với không gian phát triển của từng cảng hàng không và khu vực.
Với các cảng hàng không, sân bay trong quy hoạch phải đảm bảo tính liên hoàn, đồng bộ, kết nối và thúc đẩy các quy hoạch loại hình giao thông vận tải khác; Góp phần thúc đẩy, phát triển ngành giao thông vận tải; Giảm chi phí logistics; Phát triển kinh tế xã hội của địa phương, nhất là kết nối vùng và liên vùng; Nâng cao lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế, có tính đến cân đối vùng miền, khu vực.
Quy hoạch phải gắn kết với công tác bảo đảm an ninh quốc phòng, đối ngoại. Bộ Giao thông vận tải phối hợp với Bộ Quốc phòng để thống nhất phương án sử dụng đất cho khai thác lưỡng dụng dân dụng và quân sự tại cảng hàng không, sân bay (trừ những vị trí đất mang tính chiến lược do quân đội quản lý không thể kết hợp) trong quá trình quy hoạch chi tiết mỗi cảng hàng không.
Song song đó, phải đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư, tăng cường hợp tác công-tư, huy động các nguồn lực của xã hội để thực hiện quy hoạch. Các lĩnh vực quản lý không lưu, cấp phép, quản lý xuất nhập cảnh do cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện theo quy định. Xây dựng lộ trình triển khai đầu tư phù hợp theo quy hoạch cho các khoảng thời gian 5 năm, 10 năm và 25 năm.
Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu, kiến nghị điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật; Xây dựng cơ chế huy động nguồn lực theo đường lối của Đảng về đa sở hữu, kinh tế nhiều thành phần để đầu tư thực hiện cho toàn bộ 5 quy hoạch ngành quốc gia lĩnh vực giao thông vận tải.
Phó Thủ tướng Lê Văn Thành được giao trách nhiệm, thay mặt Thủ tướng Chính phủ, trực tiếp chỉ đạo, ký quyết định phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2025, tầm nhìn đến năm 2045.
Giai đoạn năm 2021-2030 sẽ đầu tư một số cảng hàng không lớn
Theo Tờ trình của Bộ Giao thông vận tải trình Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050:
Giai đoạn năm 2021-2030 sẽ ưu tiên tập trung đầu tư một số cảng hàng không lớn, đóng vai trò đầu mối tại vùng Thủ đô Hà Nội (Cảng hàng không quốc tế Nội Bài) và vùng TP.HCM (Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất và Long Thành).
Từng bước nâng cấp và khai thác có hiệu quả 22 cảng hàng không hiện hữu, đầu tư 6 cảng hàng không mới để nâng tổng số cảng hàng không của cả nước đưa vào khai thác lên 28 cảng, tổng công suất thiết kế hệ thống cảng hàng không đáp ứng khoảng 278 triệu hành khách, bảo đảm trên 95% dân số có thể tiếp cận tới cảng trong phạm vi 100 km.
Đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng, thiết bị quản lý bay theo hướng đồng bộ, hiện đại, ngang tầm khu vực, đáp ứng nhu cầu vận tải. Từng bước đầu tư các trung tâm logistics, trung tâm đào tạo, huấn luyện bay, bảo dưỡng sửa chữa máy bay và hệ thống trang thiết bị bảo đảm hoạt động bay.
Mạng cảng hàng không được quy hoạch theo mô hình trục nan với 2 đầu mối chính tại khu vực Hà Nội và TP.HCM, hình thành 28 cảng hàng không, bao gồm 14 cảng hàng không quốc tế (Vân Đồn, Cát Bi, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc), 14 cảng hàng không quốc nội (Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau và Côn Đảo).
Duy trì vị trí quy hoạch Cảng hàng không quốc tế Hải Phòng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 640/2011 để thay thế cho Cảng hàng không quốc tế Cát Bi giai đoạn sau năm 2030.
Tầm nhìn đến năm 2050, hình thành 29 cảng hàng không, bao gồm 14 cảng quốc tế (Vân Đồn, Hải Phòng, Nội Bài, Thọ Xuân, Vinh, Phú Bài, Đà Nẵng, Chu Lai, Cam Ranh, Liên Khương, Long Thành, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ và Phú Quốc) và 15 cảng quốc nội (Lai Châu, Điện Biên, Sa Pa, Cao Bằng, Nà Sản, Đồng Hới, Quảng Trị, Phù Cát, Tuy Hòa, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Phan Thiết, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo).
Đặc biệt, trong giai đoạn này sẽ hình thành cảng thứ 2 hỗ trợ cho Cảng hàng không quốc tế Nội Bài về phía Đông Nam Hà Nội và một số cảng hàng không, sân bay tại các đảo, quần đảo có nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và có điều kiện tự nhiên thuận lợi.
Bộ Giao thông vận tải cũng đề xuất danh mục dự án quan trọng quốc gia, dự án ưu tiên đầu tư. Trong đó, ưu tiên đầu tư xây dựng mở rộng, nâng cấp các cảng hàng không quốc tế lớn đóng vai trò đầu mối, như xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1 đạt công suất 25 triệu hành khách/năm; xây dựng nhà ga T3 Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất đạt công suất 20 triệu hành khách/năm; Mở rộng nhà ga T2 Cảng hàng không quốc tế Nội Bài (nâng công suất lên 15 triệu hành khách/năm), xây dựng đường cất hạ cánh số 3, nhà ga T3 Cảng hàng không quốc tế Nội Bài về phía nam của cảng.
Đầu tư xây dựng mở rộng, xây dựng mới các cảng tại vùng sâu, vùng xa, vùng núi, hải đảo, như: Điện Biên, Côn Đảo, Sa Pa, Pleiku...; Đầu tư xây dựng, mở rộng các cảng bảo đảm quốc phòng - an ninh, như xây dựng khu bay và khu hàng không dân dụng cảng hàng không Phan Thiết, Thọ Xuân...; Mở rộng các cảng đáp ứng nhu cầu vận tải: Phú Bài, Đồng Hới, Cát Bi, Vinh, Đà Nẵng, Chu Lai, Phù Cát, Cam Ranh, Liên Khương.
Bùi Hằng (T/h)