Bộ trưởng Công Thương: Đặc sản Việt Nam sẽ từ nhà sản xuất đến tận tay người tiêu dùng quốc tế
“Tôi hy vọng rằng, chúng ta không chỉ dừng lại với 3 tấn vải thiều xuất khẩu bằng hình thức thương mại điện tử xuyên biên giới, mà sẽ là con số lớn hơn rất nhiều” - Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên mong muốn.
Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, năm 2021 ghi nhận lần đầu tiên nông sản Việt Nam xuất khẩu theo hình thức “sàn thương mại điện tử xuyên biên giới” trên nền tảng do người Việt Nam xây dựng và vận hành. Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã gợi mở "bối cảnh dịch bệnh hiện nay cũng là một thời cơ để đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng kinh tế số, xã hội số". Có thể thấy, thương mại điện tử chính là một trong những yếu tố giúp quả vải Bắc Giang vượt qua được những khó khăn do dịch bệnh để không những hỗ trợ bà con nông dân tiêu thụ được khối lượng vải thiều khổng lồ mà còn giúp trái vải được người tiêu dùng nhiều quốc gia đón nhận.
Báo điện tử Chính phủ đã có cuộc trao đổi với Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên về giải pháp “thương mại điện tử xuyên biên giới” cũng như những định hướng tiếp theo cho mô hình thương mại điện tử này đối với xuất khẩu nông sản.
Chuẩn bị kỹ càng, khẩn trương triển khai
Bộ Công Thương là Bộ tiên phong trong việc xúc tiến mở "luồng xanh" tiêu thụ vải thiều trong mùa vải năm nay góp phần tạo nên kỳ tích của tỉnh Bắc Giang: Tiêu thụ tốt 215.000 tấn vải thiều với tổng doanh thu khoảng 6.800 tỉ đồng trong bối cảnh dịch. Bí thư Bắc Giang còn nói "chưa năm nào các bộ, ngành quan tâm, hỗ trợ tiêu thụ nông sản nói chung và vải thiều Bắc Giang mạnh mẽ và kịp thời như năm nay".
Xin hỏi Bộ trưởng đã chỉ đạo chiến dịch hỗ trợ, đồng hành cùng Bắc Giang, Hải Dương tiêu thụ vải thiều suốt 2 tháng vừa qua như thế nào? Những vướng mắc gì đã được Bộ Công Thương giải quyết?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Việc hỗ trợ bà con nông dân, doanh nghiệp phân phối, doanh nghiệp xuất khẩu tiêu thụ vải thiều và các nông sản từ nhiều năm luôn là nhiệm vụ ưu tiên của Bộ Công Thương, nhất là trong bối cảnh người nông dân, doanh nghiệp đang gặp khó khăn do đại dịch Covid-19.
Với sự chuẩn bị kỹ càng, ngay khi dịch bệnh bùng phát tại Bắc Giang, Bộ Công Thương đã khẩn trương triển khai đồng bộ giải pháp cấp bách: Bộ đã ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời tháo gỡ khó khăn trong hoạt động lưu thông, tiêu thụ hàng hóa thiết yếu và nông sản, hạn chế tình trạng nông sản bị ách tắc trong lưu thông; tăng cường hỗ trợ tiêu thụ các sản phẩm nông sản của các địa phương có sản lượng nông sản lớn, sản xuất tập trung, các địa phương trong vùng dịch.
Với chủ trương đa dạng hóa kênh phân phối, lấy thị trường trong nước làm nền tảng, Bộ Công Thương thực hiện kết nối các doanh nghiệp phân phối lớn, các chợ đầu mối nông sản trong nước phối hợp với các địa phương. Thị trường nội địa được mở rộng với tổng sản lượng tiêu thụ vải thiều của mùa vải năm nay đạt 126.552 tấn (chiếm khoảng 58,6% tổng sản lượng tiêu thụ). Trong bối cảnh giãn cách xã hội, Bộ Công Thương cũng đồng thời đẩy mạnh xúc tiến phân phối vải thiều Hải Dương, Bắc Giang cũng như các nông sản Việt trên nền tảng trực tuyến. Thời điểm tháng 5, 6/2021 vừa qua, các sàn thương mại điện tử lớn như Sendo (FPT), Voso (Viettel Post), Tiki, Shopee, Postmart (VnPost) và Lazada đều đồng loạt triển khai chiến dịch quảng bá, hỗ trợ tăng cường hiển thị sản phẩm vải thiều trên website bán hàng.
Theo báo cáo của tỉnh Bắc Giang, sản lượng tiêu thụ vải thiều qua thương mại điện tử năm 2021 đạt khoảng trên 6.000 tấn. Đây là sản lượng tiêu thụ nông sản cao nhất từ trước tới nay bằng hình thức thương mại điện tử. Để hỗ trợ bà con nông dân, các hợp tác xã tiếp cận nhanh kênh thương mại điện tử, các đơn vị thuộc Bộ Công Thương đã nhanh chóng tổ chức các lớp đào tạo, huấn luyện cũng như hỗ trợ kỹ thuật, kỹ năng về chuyển đổi số, áp dụng truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm, hướng dẫn bà con các kỹ năng quảng bá bán hàng trên môi trường số, kỹ năng bán hàng livestream…
Từ đầu năm 2021 đến nay, các hội nghị xúc tiến tiêu thụ vải thiều trực tiếp và trực tuyến tại các điểm cầu trong nước và quốc tế nhằm xúc tiến tiêu thụ quả vải được thực hiện định kỳ và mang lại nhiều kết quả tích cực. Bằng chứng là trong khi thị trường xuất khẩu truyền thống như Trung Quốc tiếp tục được duy trì thì quả vải Việt Nam cũng được các thị trường tiềm năng khác như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia, Hàn Quốc, EU... đón nhận.
Các thương vụ tại các thị trường đã mở cửa nhập khẩu đối với quả vải thiều Việt Nam như Trung Quốc, Nhật Bản, Australia, Singapore... tích cực trao đổi, làm việc với các cơ quan chức năng nước sở tại tạo điều kiện thuận lợi nhập khẩu quả vải, trực tiếp hỗ trợ doanh nghiệp xử lý các vấn đề phát sinh trong cho quá trình vận chuyển, kiểm dịch, thông quan...
Nhờ thị trường ổn định, quả vải đã khẳng định được thương hiệu trên nhiều thị trường quốc tế “khó tính” như Nhật Bản, EU… với tổng sản lượng xuất khẩu năm 2021 đạt 89.300 tấn (chiếm 41,4% tổng sản lượng tiêu thụ).
Công tác truyền thông, quảng bá thương hiệu vải thiều cũng được Bộ Công Thương chú trọng đẩy mạnh. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng kêu gọi các hiệp hội, doanh nghiệp logistics, các hãng vận chuyển có biện pháp hỗ trợ: Giảm chi phí lưu kho lưu bãi, giảm phí vận chuyển, bốc xếp hàng hóa để các doanh nghiệp phân phối, trung tâm thương mại, siêu thị có thể tăng cường thu mua nông sản cho nông dân; rút ngắn thời gian vận chuyển, ưu tiên điều kiện bảo quản tốt để các lô hàng được bảo đảm chất lượng khi tới thị trường nhập khẩu.
Xuất khẩu nông sản trên… internet
Bộ trưởng sẽ có những chỉ đạo gì để thúc đẩy mô hình thương mại điện tử phát triển trong thời gian tới, đặc biệt là thương mại điện tử xuyên biên giới, tận dụng những lợi ích từ các hiệp định thương mại tự do mang lại?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Năm 2021 cũng là năm lần đầu tiên Bộ Công Thương triển khai chương trình hỗ trợ nông sản có sự tham gia của đủ 6 sàn thương mại điện tử lớn tại Việt Nam cho sự kiện “vải thiều Bắc Giang” bao gồm: Sendo, Voso, Tiki, Postmart, Shopee và Lazada/Foodmap bên cạnh sự đồng hành của các đơn vị chuyển phát và các kênh phân phối truyền thống như BigC, Vinmart.
Tính tới hết ngày 30/6, tổng lượng vải tiêu thụ trên 6 sàn thương mại điện tử nêu trên đạt con số hơn 9.000 tấn, với gần 1 triệu đơn hàng.
Đây là con số thực sự ấn tượng, vượt ngoài kịch bản tốt nhất mà Bắc Giang dự kiến là tiêu thụ khoảng 2.000 tấn vải thiều trên các sàn thương mại điện tử trong bối cảnh dịch bệnh ở Bắc Giang bùng phát cùng thời điểm đó.
Việt Nam có rất nhiều trái cây thơm ngon, giá trị dinh dưỡng cao như mận hậu, xoài dài Sơn La, lê thơm Tai Nung Lào Cai, nho xanh Ninh Thuận, khoai lang tím Vĩnh Long, sầu riêng Ri6 Trà Vinh, bơ Đắk Lắk, nhãn xuồng Tây Ninh-Vĩnh Long, cam sành Vĩnh Long, lê mắc cọp, roi An Phước, vải thiều Hải Dương, vải thiều Bắc Giang và sắp tới là mùa nhãn lồng Hưng Yên, thanh long Bình Thuận...
Do đó, để đồng hành cùng người nông dân cũng như quảng bá trái cây Việt Nam, Bộ Công Thương đang tiếp tục phối hợp với các sàn thương mại điện tử tổ chức các chương trình hỗ trợ tiêu thụ nông sản thông qua “Gian hàng Việt trực tuyến quốc gia” với các sự kiện như: Ngày đặc sản Sơn La; Ngày hội xứ Dừa – Đặc sản Bến Tre; Phiên chợ nông sản Việt; Tuần nông sản Việt, đi chợ online… với hàng chục loại nông sản các vùng miền địa phương.
Không chỉ với thị trường nội địa, Bộ Công Thương đã phối hợp với Viettel Post xuất khẩu hơn 3 tấn vải thiều Bắc Giang sang Đức trên nền tảng Voso Global.
Có thể nói, đây là lần đầu tiên chúng ta xuất khẩu được nông sản tươi sang châu Âu trên nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới do người Việt Nam xây dựng và vận hành.
Hiện, chúng tôi đang hoàn thiện thêm các thủ tục cần thiết để có thể xuất khẩu thêm một số nông sản, đặc sản địa phương ra thị trường nước ngoài thông qua phương thức “thương mại điện tử xuyên biên giới”, tức là từ nhà sản xuất Việt Nam tới tận tay người tiêu dùng nước ngoài.
Tôi hy vọng rằng tới đây, không chỉ là 3 tấn vải thiều mà sẽ là con số lớn hơn nhiều, không chỉ với vải thiều Bắc Giang mà còn với nhiều loại trái cây nông sản, đặc sản của Việt Nam đến tay người tiêu dùng quốc tế.
Trái vải Việt Nam hiện được bán với giá 500.000 đồng/kg tại thị trường khó tính bậc nhất thế giới là Nhật Bản. Điều này không chỉ nói lên sự đặc biệt thơm ngon của trái cây Việt Nam mà còn thể hiện trái cây Việt Nam đã đạt những tiêu chuẩn mang tính quốc tế đặc thù từ cách chăm bón, đến thu hoạch, đóng gói, bảo quản, vận chuyển...
Xin hỏi Bộ trưởng, không chỉ trái vải mà với nông sản Việt Nam nói chung, doanh nghiệp xuất khẩu nông sản cần nắm được những yêu cầu, tiêu chuẩn gì để có thể thuận lợi khi xuất khẩu sang các thị trường lớn?
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên: Xác định nông nghiệp là khu vực mà Việt Nam có nhiều thế mạnh, có vai trò quan trọng trong phát triển bền vững kinh tế-xã hội của đất nước, do vậy, trong quá trình đàm phán hội nhập, Bộ Công Thương và các bộ, ngành luôn đặt mục tiêu để đạt được phương án tốt nhất cho hàng hóa nông sản, trái cây của Việt Nam xuất khẩu.
Quả vải thiều Việt Nam là một ví dụ. Trái vải thuận lợi xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản và được người tiêu dùng Nhật Bản đón nhận lần đầu tiên vào vụ mùa năm 2020 là một quá trình dài với sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan, địa phương cũng như sự nỗ lực của doanh nghiệp, người nông dân. Gần 5 năm đàm phán mở cửa thị trường với Nhật Bản, chúng ta đã thực hiện các yêu cầu rất khắt khe của nước bạn về việc xin cấp mã số vùng trồng, kiểm dịch, hun trùng, đóng gói… Song song với đó, Bộ Công Thương cũng chuẩn bị kết nối với các hệ thống phân phối lớn ở Nhật Bản như hệ thống siêu thị AEON để khi trái vải được cấp phép chính thức nhập khẩu vào Nhật Bản sẽ ngay lập tức được bày bán ở các siêu thị lúc đó.
Có thể thấy, mặc dù chúng ta đã làm tốt công tác đàm phán để cắt giảm thuế quan, tạo điều kiện tốt nhất cho hàng hóa tiếp cận các thị trường, tuy nhiên công tác đàm phán để được công nhận về quản lý chất lượng và quản lý an toàn thực phẩm còn hạn chế, do vậy, nhiều mặt hàng dù đã được nhiều thị trường giảm thuế về 0% nhưng nông sản vẫn chưa thâm nhập được.
Do đó, ngoài trái vải, để tiếp tục đưa được những trái cây tươi ngon khác của Việt Nam đến với bạn bè quốc tế, người nông dân cũng như doanh nghiệp, hợp tác xã trong thời gian tới cần thực hiện nghiêm túc và tuân thủ chặt chẽ các quy định về truy xuất nguồn gốc; kiểm soát tốt vấn đề về kiểm dịch, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm trong toàn bộ chuỗi bảo quản, chế biến để có sản phẩm nông sản xuất khẩu chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của các nước nhập khẩu.
Người nông dân, hộ sản xuất, doanh nghiệp phân phối, xuất khẩu cần chủ động hợp tác, liên kết để tạo chuỗi cung ứng, hoàn thiện “chuỗi giá trị” từ sản xuất, nuôi trồng, chế biến và phân phối tới người tiêu dùng bảo đảm chất lượng sản phẩm luôn ở mức tốt nhất, bảo đảm các tiêu chí mà các thị trường có nhu cầu nhập khẩu đưa ra.
Riêng đối với thị trường Trung Quốc, đây vốn là thị trường tiêu thụ nông sản truyền thống của Việt Nam. Điều này dẫn đến việc nhiều địa phương và doanh nghiệp chủ quan, coi đây thị trường “dễ tính” và người nông dân, thương lái cũng có tâm lý “ỷ lại” vào hoạt động trao đổi cư dân biên giới hay còn gọi là xuất khẩu tiểu ngạch dẫn đến nhiều rủi ro trong hoạt động xuất khẩu nông sản như phụ thuộc vào thương lái, bị ép giá, ùn tắc vào mùa cao điểm.
Vì vậy trong thời gian tới, để tránh xảy ra tình trạng “được mùa mất giá”, người nông dân, doanh nghiệp cần thay đổi nhận thức về thị trường, coi thị trường Trung Quốc là thị trường đòi hỏi tiêu chuẩn chất lượng cao như Mỹ, EU, Nhật Bản... Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nông sản ngoài việc nắm bắt tiêu chuẩn chất lượng, thị hiếu, nhu cầu thị trường cần chuyển dần sang hình thức xuất khẩu chính ngạch, chú trọng bảo đảm chất lượng, xây dựng thương hiệu, hướng tới giảm dần xuất khẩu các sản phẩm thô có giá trị thấp, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm nông sản chế biến sâu.
Xin cảm ơn Bộ trưởng!
Phan Trang (thực hiện)
Theo Báo Chính phủ