'Tấc đất', 'vườn', 'ruộng' trong quan niệm của Bác Hồ
Cũng như người nông dân Việt coi đất đai, vườn, ruộng là tài sản quý giá nhất, Bác Hồ còn nâng những tài nguyên ấy thành biểu tượng văn hóa đặc sắc.
Cũng như người nông dân Việt coi đất đai, vườn, ruộng là tài sản quý giá nhất, Bác Hồ còn nâng những tài nguyên ấy thành biểu tượng văn hóa đặc sắc. Là nhà văn hóa lớn, Bác thấu hiểu cảnh đời, cảnh sống, thấu cảm ước mơ khát vọng của những người chân lấm tay bùn. Người đi tìm đường cứu nước, ở khía cạnh ấm no, chính là tìm cách trả lại cho người nông dân tài sản của họ đã bị bọn phong kiến, thực dân chiếm đoạt!
Sau ngày khai sinh ra chính thể mới (1945), đất nước sa vào tình trạng cực kỳ khó khăn. Bác ưu tiên “diệt giặc đói”, “diệt giặc dốt” và phát động phong trào “Tăng gia sản xuất” với các khẩu hiệu “Sạch làng tốt ruộng”, “Tấc đất tấc vàng”. Người Việt rất quý đất đai vì đó là tư liệu canh tác chủ yếu, thể hiện ở ngay cách dùng từ “tấc đất” và Bác Hồ là người Việt Nam điển hình trong việc thể hiện sự trân quý này trong mọi bài nói bài viết của mình.
Bác là người gợi ý Bộ Canh nông ra tờ báo “Tấc đất” để cổ động sản xuất. Ngày 7/12/1945, trên báo này, Người có bài viết “Gửi nông gia Việt Nam”. Bác khuyên “Dân muốn ăn no thì phải giồng giọt cho nhiều. Nước muốn giàu mạnh thì phải phát triển nông nghiệp. Vậy chúng ta không nên bỏ hoang một tấc đất nào hết. Chúng ta phải quý mỗi tấc đất như một tấc vàng”. Bài viết đã trở thành tài sản văn hóa tinh thần, là chân lý vàng cho hướng đi, hướng phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam.
Trong 2 năm 1945 - 1946, khi ra Lời Hiệu triệu, khi có ý kiến với các Ủy ban (kiến thiết, kháng chiến, tản cư), khi động viên dân chúng,… nhiều lần, Người nhấn mạnh “không để một tấc đất hoang”. Sau này miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, với cương vị Chủ tịch Nước, vẫn phong cách ấy, Người thường xuyên viết báo nêu kinh nghiệm, có khi chỉ là những việc rất nhỏ của nhà nông. Tháng 8/1961, Người có bài báo “Cần học những kinh nghiệm tốt” nêu bài học của xã Xuân Lai (Thanh Hóa) khi “lợn thiếu cám” thì “cả xã phát động phong trào trồng cây làm thức ăn cho lợn. Họ không để một tấc đất hoang. Họ biến bờ rào gai thành hàng chục cây số “bờ rào ba”, tức là trồng ba thứ: ngoài trồng cỏ voi, giữa trồng sắn, trong trồng củ dong. Họ thi đua trồng ngô, lang, đu đủ… Bình quân mỗi người có một sào cây thức ăn cho lợn”. Từ những việc nhỏ cho thấy, Bác Hồ không chỉ vĩ đại ở tư tưởng lớn, ở trí tuệ lớn mà còn ở những việc rất chi tiết, cụ thể, đời thường!
Người dùng thành ngữ “tấc đất cắm dùi” một cách tự nhiên và chính xác như người nông dân. Người khẳng định, ghi nhận, động viên các chiến sĩ trên mặt trận “giữ đất”. Tháng 12/1945, Người gửi thư tới các chiến sĩ Nam Bộ và Nam phần Trung Bộ hy sinh thân mình chặn bước tiến kẻ thù với tiếng nói, cách dùng ngôn từ, hình ảnh của người nông dân: “Từ ba tháng nay, các anh chị em đã đem xương máu ra để giữ lấy từng tấc đất của Tổ quốc”. Tháng 2/1946, Người ra Lời Kêu gọi toàn dân đồng lòng, tin tưởng cùng Chính phủ tranh đấu giữ tự do: “Còn một tấc đất, còn một người dân thì còn tranh đấu”.
Như vậy, vượt lên trên giá trị một thứ tài sản quý, với Bác Hồ, đất đai đã trở thành biểu tượng cho giá trị văn hóa, giá trị sống; nếp sống, nếp lao động; biểu hiện cho cả tính cách một dân tộc. Một tính cách cần cù, chân chất, mộc mạc tự nhiên như Đất, bền vững, vĩnh cửu, kiên định như Đất!
Là người làm vườn đích thực, thời kỳ công tác bí mật ở Thái Lan, Bác Hồ đã lao động sản xuất như một nông dân. Trong bài viết “Kiều bào ta ở Thái Lan luôn luôn hướng về Tổ quốc”, Bác kể: “Bác cũng phát nương làm xuốn như các anh em khác”. “Xuốn”, âm tiếng Xiêm có nghĩa là vườn. Năm 1946, những ngày đầu ở Pháp, có người bạn hỏi về chỗ ăn ở, Người nói: “Chính phủ của ông đã cho tôi một căn hộ lộng lẫy trong một lâu đài gần Quảng trường Ngôi sao. Tôi không thích thú cho lắm. Tôi cần một mảnh vườn, mà ở đây lại không có vườn”. Khi trở thành Chủ tịch Nước, Bác vẫn là người làm vườn: “Việc quân việc nước đã bàn/ Xách bương dắt trẻ ra vườn tưới rau”.
Với Bác Hồ, “vườn” còn trở thành biểu tượng của tương lai tốt đẹp, của sự đa dạng tốt tươi. Người dùng những hình ảnh thật đẹp, giàu ý nghĩa như thôi thúc, khuyến khích, động viên về “thi đua ái quốc”: “Như một cái vườn mênh mông, tươi tốt, mới có một vài nụ hoa chớm nở, song chắc rồi đây vườn sẽ khai hoa kết quả đầy cả góc trời”.
Tháng 6/1968, nói chuyện với các đồng chí có trách nhiệm trong Ban Tuyên huấn Trung ương, Người nhấn mạnh về chiến lược xây dựng con người: “Cũng như vào vườn hoa, cần cho mọi người được thấy nhiều loại hoa đẹp... Những gương người tốt làm việc tốt muôn hình muôn vẻ là vật liệu quý để các chú xây dựng con người”. Đây thực sự là kim chỉ nam cho ngành giáo dục hôm nay!
Sinh thời, hầu như chiều nào có chút thì giờ rảnh rỗi là Bác ra vườn ngắm những mầm lá cam đang nhú và tìm bắt những con sâu có hại. Vào dịp cam chín, Bác tự tay hái cam và tặng khách. Người nói vui: “Của ít lòng nhiều, xin quý khách nhận cho!”. Nhân cuộc họp cuối năm của Hội đồng Chính phủ, Bác bảo đồng chí giúp việc hái tặng mỗi vị một quả cam “cây nhà lá vườn”. Người tự tay lấy tặng mỗi người một quả và nói rất chân tình: “Cam của vườn Bác chắc không ngon ngọt bằng cam của bà con nông dân ta trồng, chú nào cần ăn thêm đường thì lấy...”. Đây không phải là hành vi và lời nói của một vị Chủ tịch Nước mà là lời của một người nông dân thực thụ và khiêm tốn, trân trọng nông dân - nhân dân và tôn lên thành quả lao động của nhân dân. Lời ấy, là lời của bậc vĩ nhân khi muốn nhắc cho mọi người nhớ một điều rằng: Người trồng cây vĩ đại nhất chính là Nhân dân.
Trong tư duy Hồ Chí Minh, chữ “ruộng” còn là biểu tượng cho đất nước và lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, dù có nói về vấn đề rộng lớn hay cụ thể, phức tạp hay đơn giản, Người đều có cách sử dụng các biểu tượng nên rất giản dị, dễ hình dung, dễ hiểu. Người ví “Xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như làm ruộng. Trước phải khó nhọc cày bừa, chân bùn tay lấm, làm cho lúa tốt, thì mới có gạo ăn”. Người từng căn dặn: “Đồng bào nông dân ta cần hiểu rằng ruộng đất rất tốt, nhưng phải có sự chăm chỉ, cần cù thì mới đem lại hoa màu, thóc lúa, nghĩa là muốn có ăn thì phải lăn vào ruộng”. Bác Hồ đã phát triển thành ngữ dân gian “Muốn ăn thì lăn vào bếp” và đẩy ý nghĩa đi xa hơn nhiều so với nghĩa ban đầu của ngụ ngôn dân gian, đó là, muốn tạo ra vật chất và hưởng thụ nó thì phải lao động một cách chăm chỉ, sáng tạo trong cả một quá trình dài.
Có thể hiểu vì sao tư tưởng Hồ Chí Minh vĩ đại nhưng lại vô cùng gần gũi, và vì sao những tư tưởng đó lại trường tồn cùng dân tộc, mãi mãi là kim chỉ nam cho công cuộc lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta. Bởi vì, tư tưởng của Bác bắt sâu gốc rễ từ truyền thống, kế thừa những nét tích cực và loại bỏ những nét không phù hợp với sự phát triển. Bởi vì, tư tưởng của Bác đã vượt lên tầm thời đại và kết tinh tinh hoa dân tộc, tinh hoa nhân loại thành chân lý muôn đời.
Những vĩ nhân luôn thống nhất hài hòa tuyệt đẹp cái bình thường cụ thể với sự vĩ đại phổ quát từ trong quan niệm, suy nghĩ lớn lao cho đến hành động nhỏ nhất. Bác Hồ của chúng ta là một vĩ nhân như thế!
Theo TNMT