Cúng ông Công ông Táo đi vào tiềm thức người Việt nhiều thế hệ
Trong ngày Tết cổ truyền của Việt Nam những phong tục tập quán đã được lưu truyền từ xa xưa cho đến tận ngày nay và dần trở thành nét đẹp trong văn hóa ngày Tết. Lễ cúng ông Công ông Táo là một trong những nét đẹp văn hóa đó.
Tục cúng ông Công ông Táo ở ba miền Bắc-Trung-Nam
Theo truyền thống của người Việt, vào ngày cúng ông Công, ông Táo lên thiên đình để báo cáo mọi việc trong gia đình nhà chủ với Ngọc Hoàng, mọi người thường dọn dẹp nhà, bếp sạch sẽ, làm một mâm cơm để tiễn ông Công ông Táo về trời.
Ngoài những điểm tương đồng này, thì tuỳ theo phong tục vùng miền mà nghi lễ cúng ông Công, ông Táo giữa 3 miền Bắc-Trung-Nam có sự khác biệt nhất định, nhưng nhìn chung là đều thể hiện tấm lòng thành kính của gia chủ đối với vị thần cai quản việc phúc đức trong nhà.
Người miền Bắc thường cúng ông Công ông Táo từ khá sớm, các gia đình phần lớn đều chuẩn bị mâm cỗ làm lễ từ khoảng 20 tháng Chạp và muộn nhất là vào trưa ngày 23. Sở dĩ không nhiều nơi làm lễ cúng sau khoảng thời gian này là vì có quan niệm rằng kể từ 12 giờ trưa ngày 23 tháng Chạp, các Táo phải về thiên đình làm lễ chầu với Ngọc Hoàng nên không còn ở dương gian để nhận lễ được.
Nét đặc trưng văn hoá khác biệt nhất của miền Bắc đối với 2 miền còn lại là đại đa số các gia đình thường dùng cá chép để làm đồ cúng lễ. Tuỳ theo từng địa phương nói chung và gia đình nói riêng mà đó có thể là cá chép sống, hoặc cá chép giấy với số lượng khác nhau. Cá chép còn sống được đặt cạnh mâm lễ vật, sau khi xong lễ thì được đem thả phóng sinh ở ao hồ, sông suối gần nhà với ý nghĩa cá chép hoá rồng, làm phương tiện đưa các Táo trở về thiên đình. Bên cạnh đó, việc phóng sinh cá chép vào ngày này còn thể hiện tấm lòng nhân hậu, đức độ và thiện lương của gia chủ.
Ngoài ra, trong mâm cúng ông Công ông Táo của người miền Bắc còn không thể thiếu bộ áo mũ các Táo. Và mâm cỗ cúng thường là những món truyền thống như xôi, gà, giò, nem, canh măng... cũng có thể là mâm cỗ chay với các món xôi, chè...
Tục cúng ông Công ông Táo của người miền Trung thường được cho là cầu kỳ nhất trong 3 miền. Không cúng áo mũ vàng mã cho các Táo như miền Bắc, người miền Trung thường dâng lên một con ngựa bằng giấy, có yên cương đầy đủ, đốt vàng mã và dâng cúng nhiều lễ vật.
Công việc đầu tiên mà người miền Trung làm trong nghi lễ cúng ông Táo chính là thay mới bên trong lư hương và lau dọn bàn thờ ông Táo sạch sẽ, chuẩn bị tươm tất cho lễ cúng diễn ra vào ngày 23 tháng Chạp.
Sau khi cúng xong, gia chủ sẽ tiến hành tiễn tượng 3 Táo quân cũ bằng đất nung khỏi bàn thờ và đưa tới các am miếu ở đầu xóm hoặc ở dưới các gốc cây cổ thụ ngã ba đường. Tiếp đến là rước tượng 3 Táo quân mới đặt lại lên bàn thờ để bắt đầu năm mới.
Người dân Huế còn có tục dựng cây nêu trước sân nhà hay sân đình trong sáng ngày 23. Lễ cúng chiều 30 Tết, họ lại rước thần về và sáng mồng 1 Tết an vị ông Táo mới.
Theo phong tục của người miền Nam xưa thì có nhiều điều khác biệt so với cách cúng ngày nay. Các gia đình thường cúng Táo quân vào buổi đêm, trong khoảng thời gian từ 20 giờ đến 23 giờ ngày 23 tháng Chạp.
Bởi quan niệm rằng, lễ cúng ông Táo chỉ được thực hiện vào cuối ngày, khi cả gia đình đã dùng xong bữa tối, không phải dùng đến bếp núc để nấu nướng nhằm tránh làm phiền đến các Táo thì nghi lễ tiễn Táo về chầu trời mới có hiệu quả.
Tuy nhiên, do có sự giao thoa văn hoá nên thời gian cúng và mâm cỗ cúng ông Táo của người miền Nam ít nhiều có sự thay đổi. Mọi nhà làm lễ tiễn ông Táo từ sáng sớm tại khu vực đặt bếp nấu, với mâm lễ tuỳ điều kiện nhưng không thể thiếu những chén chè trôi nước, đĩa kẹo được làm từ mè đen và đậu phộng, nhang đèn, 3 chung nước nhỏ và đặc biệt là bộ "cò bay, ngựa chạy." "Cò bay, ngựa chạy" là hình giấy hình con cò và con ngựa (khác với miền Bắc là sử dụng khung tre) dùng để hoá thật sau khi xong lễ với mong muốn Táo về chầu trời nhanh hơn. Bên cạnh đó, gia chủ còn sắm 3 bộ quần áo mới bằng giấy cho 3 vị Táo.
Việt Nam và Trung Quốc cúng ông Công ông Táo có gì khác biệt?
Ở hai quốc gia, lễ Táo quân đều có ý nghĩa tiễn các vị thần bếp về trời, báo cáo lại mọi chuyện trong gia đình suốt năm qua, sau vài ngày, lại làm lễ đón Táo quân trở về. Tuy nhiên, thời gian có sai lệch đôi chút.
Ở Trung Quốc, lễ Táo quân thường diễn ra từ ngày 24 tháng Chạp âm lịch, có thể tổ chức sớm vào ngày 23 hoặc muộn vào ngày 25. Người Hoa làm lễ đón Táo quân trở về nhà vào ngày mùng 4 Tết.
Còn ở Việt Nam, người Việt chuẩn bị lễ tiễn ông Công ông Táo về trời vào ngày 23 tháng Chạp. Nhiều gia đình có thể làm sớm từ ngày 21 tháng Chạp. Đa số các địa phương quan niệm rằng, đúng 12h hoặc trong cung giờ Ngọ ngày 23 tháng Chạp là thời gian cuối cùng để ông Công ông Táo lên trời, do đó lễ cúng phải hoàn thành trước. Nhưng một số nơi phong tục "thoáng" hơn, chỉ cần cúng xong trước 23h (trước khi sang giờ Tý của ngày hôm sau). Người Việt sẽ đón ba vị thần bếp trở về nhà vào đêm 30 Tết.
Người Trung Quốc theo truyền thống đặt bàn thờ Táo quân ở ngay gian bếp của gia đình. Trong bếp có dán tranh thần bếp.
Trong khi đó, đa số các gia đình Việt làm lễ cúng ông Công ông Táo ngay trên bàn thờ gia tiên, nơi trang trọng nhất của gia đình. Một số ý kiến còn cho rằng, bếp là nơi không đủ trang nghiêm để thờ thần linh. Tuy nhiên, vẫn có nhiều người theo tục lệ đặt bàn thờ tại đây.
Người Trung Quốc quan niệm rằng, thần bếp cưỡi ngựa lên chầu trời nên ngoài đồ vàng mã, họ luôn dán thêm tranh ngựa lên trên cửa bếp, làm "phương tiện" cho Táo quân. Còn ở Việt Nam, ba vị thần cưỡi cá chép lên trời nên trong bộ vàng mã, ngoài ba bộ mũ áo cho táo ông, táo bà, luôn có hình nộm cá chép. Ngoài ra, người Việt còn có phong tục thả cá chép phóng sinh để ông Công ông Táo "lên đường bình an", thuận buồm xuôi gió.
Nguyễn Linh (T/h)