Nắm bắt xu thế toàn cầu: Tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn
Xu thế của thế giới hậu Covid-19 sẽ là tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, giảm khai thác tài nguyên thiên nhiên, chuyển đổi năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch sang NLTT cùng với bảo vệ, khôi phục hệ sinh thái tự nhiên.
Trong năm 2022, ngành tài nguyên và môi trường đứng trước nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Xin Bộ trưởng cho biết những giải pháp nhiệm vụ trọng tâm, then chốt sẽ được ngành tập trung trong năm 2022 để chuyển hóa khó khăn, tạo cơ hội và động lực cho sự phát triển bền vững?
Đời sống kinh tế - xã hội thế giới đang thay đổi nhanh chóng, “luật chơi mới” về đầu tư, thương mại đã hình thành sau Hội nghị COP26. Phục hồi xanh sau đại dịch Covid-19, mục tiêu trung hòa carbon, chuyển đổi năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo cùng với bảo vệ, khôi phục hệ sinh thái tự nhiên đã trở thành xu thế tất yếu của thời đại. Điều này đòi hỏi phải tạo ra những thay đổi cơ bản trong tư duy và hành động, nắm bắt xu thế của thời đại, tiên phong đổi mới đột phá về thể chế, thực hiện các cam kết quốc tế về môi trường và khí hậu.
Vì vậy, trước hết Việt Nam cần tập trung hoàn thiện đồng bộ thể chế, trong đó trọng tâm là hoàn thành tổng kết Nghị quyết số 19 về đất đai trình Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết mới; Tổng kết Nghị quyết số 24 về tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Đặc biệt sẽ xây dựng, trình Quốc hội dự án Luật Đất đai (sửa đổi); xây dựng Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) với mục tiêu cao nhất là tiết kiệm, hiệu quả, bền vững, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội.
Trong bối cảnh hiện nay, các nguồn tài nguyên phải được điều tra, đánh giá, thống kê, kiểm kê, quy hoạch và hạch toán đầy đủ, phân bổ hợp lý cho phát triển trước mặt và lâu dài. Nguồn lợi từ tài nguyên phải được tái đầu tư cho tương lai bền vững. Năm 2022 sẽ hoàn thiện để trình Bộ Chính trị ban hành nghị quyết mới về khoáng sản; Tổng kết đánh giá và lập hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật Địa chất và Tài nguyên khoáng sản. Trình Quốc hội Quy hoạch sử dụng không gian biển quốc gia và xây dựng đồng bộ hệ thống quy hoạch tài nguyên và môi trường.
Bên cạnh việc quản lý, sử dụng khai thác tiết kiệm, hiệu của các nguồn tài nguyên hữu hạn, ngành sẽ tiếp tục xây dựng tạo lập tài nguyên số từ các dữ liệu lớn về đất đai, thông tin địa lý, quan trắc, viễn thám, dữ liệu khí hậu để thực hiện mục tiêu kinh tế hóa tài nguyên, môi trường và phát triển kinh tế số.
Trong năm 2022, ngành tài nguyên và môi trường tiếp tục phân cấp thẩm quyền đi đôi với nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi, thượng tôn pháp luật; tập trung thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, xử lý nghiêm minh các vụ việc vi phạm pháp luật, thất thoát, lãng phí, trong quản lý tài nguyên và môi trường, các hành vi nhũng nhiễu, hành dân gây bức xúc trong dư luận.
Cũng trong năm 2022, Bộ sẽ tập trung triển khai Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; tập trung rà soát tình trạng lãng phí đất đai, đất có nguồn gốc từ các nông, lâm trường, các dự án có vướng mắc sau thanh tra, kiểm tra, kiểm toán... trên phạm vi cả nước lập các tổ công tác liên ngành của Trung ương và địa phương xử lý, giải quyết đưa quỹ đất vào sử dụng hiệu quả, giải phóng nguồn lực cho phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội.
Phát triển các ngành kinh tế biển, hành lang kinh tế ven biển, điện gió ngoài khơi, khai hoang, lấn biển. Ứng dụng phương pháp, công nghệ tiên tiến trong quản trị tài nguyên khoáng sản.
Xu thế của thế giới hậu Covid-19 sẽ là tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, giảm khai thác tài nguyên thiên nhiên, chuyển đổi năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo cùng với bảo vệ, khôi phục hệ sinh thái tự nhiên. Cần đặt môi trường, khí hậu ở vị trí ưu tiên cao nhất trong chương trình nghị sự, kế hoạch phát triển và thu hút đầu tư. Do đó, ngành sẽ triển khai hiệu quả Luật Bảo vệ môi trường, chặn đà và từng bước đảo ngược xu thế suy thoái về môi trường, các hệ sinh thái; phát triển kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh dựa vào sự cân bằng và khả năng cung ứng của hệ sinh thái…
Thực hiện giải pháp chiến lược, đột phá triển khai kết quả Hội nghị COP26; hoàn thiện thể chế, chính sách; thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi, chủ động tận dụng các cơ hội hợp tác, tiếp cận công nghệ, và đón đầu các dòng vốn đầu tư xanh vào hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, chuyển đổi năng lượng phục vụ chuyển đổi mô hình phát triển…
Một trong những nội dung rất quan trọng của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là phát triển theo mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Bộ trưởng có thể chia sẻ quan điểm về mô hình kinh tế tuần hoàn và những tác động đối với đời sống kinh tế - xã hội?
Trên thế giới hiện nay, bên cạnh các mô hình như kinh tế xanh, kinh tế phát thải carbon thấp thì kinh tế tuần hoàn được coi là chìa khóa để giải quyết yêu cầu về sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên, giải quyết ô nhiễm môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Đây là mô hình kinh tế, trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ đặt ra mục tiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất, loại bỏ tác động tiêu cực đến môi trường. Kinh tế tuần hoàn giúp tận dụng được nguồn nguyên vật liệu đã qua sử dụng thay vì tiêu tốn chi phí xử lý; giảm thiểu khai thác tài nguyên thiên nhiên, tận dụng tối đa giá trị tài nguyên; hạn chế tối đa chất thải, khí thải ra môi trường.
Đối với xã hội, kinh tế tuần hoàn giúp giảm chi phí xã hội trong quản lý, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; tạo ra thị trường mới, cơ hội việc làm mới, nâng cao sức khoẻ người dân... Đối với doanh nghiệp, kinh tế tuần hoàn góp phần giảm rủi ro về khủng hoảng thừa sản phẩm, khan hiếm tài nguyên; tạo động lực để đầu tư, đổi mới công nghệ, giảm chi phí sản xuất, tăng chuỗi cung ứng...
Phát triển kinh tế tuần hoàn đang trở thành một trong những xu thế chủ đạo. Bài học thành công của Hà Lan, Đức, Canada, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore… là kinh nghiệm để Việt Nam phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn, thúc đẩy hợp tác nhằm tiếp nhận chuyển giao các công nghệ về thiết kế, chế tạo, chuyển đổi số.
Theo Bộ trưởng, đâu là những giải pháp hữu hiệu để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam trong thời gian tới?
Để thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn, Việt Nam đã hoàn thiện thể chế với việc ban hành Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo đó đã quy định trách nhiệm cụ thể của nhà sản xuất trong thu hồi, tái chế hoặc chi trả chi phí xử lý các sản phẩm thải bỏ dựa trên số lượng sản phẩm bán ra trên thị trường; phát triển công nghiệp môi trường, thị trường hàng hóa và dịch vụ môi trường, sản phẩm thân thiện môi trường… Quản lý dự án theo vòng đời, thiết lập lộ trình xây dựng và áp dụng quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường tương đương các quốc gia tiên tiến trong khu vực.
Bên cạnh đó,thực hiện các giải pháp để chuyển đổi mô hình kinh tế như: điều chỉnh quy hoạch năng lượng, giảm dần sự phụ thuộc vào các dạng năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch, thủy điện; xây dựng lộ trình chuyển đổi công nghệ dựa trên các tiêu chí tiết kiệm và hiệu quả năng lượng, giảm thiểu chất thải. Đặc biệt quan trọng ngay từ khâu quy hoạch, kế hoạch, thiết kế sản xuất, sản phẩm để tăng cường kết nối chuỗi sản xuất tuần hoàn. Lựa chọn một số ngành, lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ thực hiện theo mô hình kinh tế tuần hoàn như: công nghiệp giấy, sản xuất sắt, thép, nhiệt điện... Phát triển các đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, trung tâm nhiệt điện theo mô hình tuần hoàn.
Trong thời gian tới sẽ tăng cường tuyên truyền trong toàn xã hội về yêu cầu, vai trò, ý nghĩa, lợi ích và tầm quan trọng của phát triển kinh tế tuần hoàn, trong đó, cộng đồng doanh nghiệp và người dân đóng vai trò trung tâm. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ, lấy chuyển đổi số và ứng dụng thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 làm động lực để phát triển kinh tế tuần hoàn.
Ngoài ra sẽ tiếp tục phát huy nội lực, tranh thủ hỗ trợ quốc tế để thực hiện các cam kết; đồng thời khuyến khích, huy động cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân đầu tư vào phát triển kinh tế tuần hoàn…
Tại Hội nghị COP26, cam kết mạnh mẽ được Thủ tướng Phạm Minh Chính đưa ra là sẽ đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, phù hợp với xu hướng phục hồi xanh hậu Covid-19 và nền kinh tế nhân văn lấy con người làm trung tâm như Nghị quyết Đại hội Đảng XIII đã thông qua. Tuyên bố mang tính lịch sử này có ý nghĩa thế nào đối với Việt Nam hiện nay? Việt Nam sẽ tận dụng cơ hội này như thế nào để chuyển đổi nền kinh tế xanh, thưa Bộ trưởng?
Việt Nam là một trong những quốc gia chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu đồng thời có tổng lượng phát thải khí nhà kính hàng năm lớn (hiện đứng thứ 21 trên thế giới và đứng thứ 2 trong ASEAN). Tại Hội nghị COP26, đoàn cấp cao của Việt Nam đã phát biểu tại các phiên họp quan trọng liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của Việt Nam như: Hội nghị Thượng đỉnh về biến đổi khí hậu, trong đó có thực hiện các cơ chế theo Thoả thuận Paris để đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050; tham gia sự kiện công bố cam kết giảm phát thải mê-tan toàn cầu; công bố Tuyên bố Glasgow của các lãnh đạo về rừng và sử dụng đất… Điều đó đã thể hiện tầm nhìn thời đại, quyết tâm và cam kết chính trị rất cao của Đảng, Nhà nước trong đẩy mạnh chuyển đổi kinh tế, góp phần giải quyết khủng hoảng khí hậu.
Những tuyên bố chính trị của Thủ tướng Chính phủ cho thấy vị thế, trách nhiệm của Việt Nam trong giải quyết những thách thức nghiêm trọng của toàn cầu đồng thời cũng chính là giúp Việt Nam vượt qua thách thức nghiêm trọng do biến đổi khí hậu hiện nay. Đây là những cam kết rất mạnh mẽ của Việt Nam, hoà cùng xu thế chung của nhân loại, xu thế hành động mạnh mẽ về phát triển ít phát thải. Các cam kết của Việt Nam đã được nhà lãnh đạo các nước, các tập đoàn lớn trên thế giới đánh giá cao.
Để đưa ra cam kết trên, Việt Nam đã có sự chuẩn bị rất kỹ lưỡng; đưa vấn đề ứng phó với biến đổi khí hậu, các cam kết của Việt Nam thực hiện Thỏa thuận Paris vào Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Nghị định về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone; xây dựng các quy định thực hiện giảm nhẹ, thích ứng với biến đổi khí hậu đáp ứng yêu cầu minh bạch… Tôi cho rằng thỏa thuận đạt được mang lợi ích kép cho Việt Nam. Trước hết, Việt Nam là quốc gia chịu tác động của biến đổi khí hậu nên có lợi ích rất lớn từ cam kết giữ mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu ở ngưỡng 1,5OC, giảm nhẹ thiệt hại đối với các đồng bằng ven biển; phát huy được tiềm năng về các nguồn năng lượng tái tạo.
Thứ hai, Việt Nam có thể tiếp cận được với sự dịch chuyển các dòng vốn tín dụng, đầu tư toàn cầu, cũng như đáp ứng được sự thay đổi về “luật chơi” mới về thương mại, kinh tế toàn cầu. Qua đó, mở ra nhiều cơ hội chuyển dịch mô hình tăng trưởng, tiếp cận tri thức, công nghệ, tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu, đặc biệt là các dòng tín dụng, đầu tư cho hạ tầng ứng phó với biến đổi khí hậu, chuyển đổi năng lượng.
Việt Nam đã rất khẩn trương triển khai thực hiện cam kết với việc trình Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và xây dựng đề án để triển khai thỏa thuận. Trong thời gian tới sẽ tập trung hoàn thiện Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với lộ trình đưa phát thải ròng của Việt Nam về “0” vào năm 2050. Cùng với đó hoàn thiện các cơ chế chính sách, có những giải pháp đột phá trong việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư thuận lợi để hợp tác phát triển và thực hiện các dự án về chuyển đổi năng lượng.
Đặc biệt, Việt Nam cần tăng cường phổ biến, tuyên truyền để người dân và doanh nghiệp hiểu được những cơ hội, lợi ích lâu dài từ việc tham gia các sáng kiến toàn cầu về giảm phát thải khí nhà kính cũng như những thách thức trong ngắn hạn về chuyển đổi năng lượng, chuyển từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng tái tạo. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng phải chuẩn bị tốt nguồn nhân lực để áp dụng các công nghệ, quy trình sản xuất tiên tiến…
Theo VnEconomy